Lưu trữ

Archive for the ‘Kháng chiến chống Mỹ’ Category

Thắng lợi của nghệ thuật hiệp đồng tác chiến

Tháng Chín 25, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trận “Điện Biên Phủ trên không”

Boeing B-52 dropping bombs.jpg

Máy bay B52 thả bom. Ảnh: Internet

Cách đây 39 năm, một trận quyết chiến chiến lược được diễn ra trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và một số vùng phụ cận, giữa một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng có ý chí kiên cường và quyết không khuất phục đế quốc Mỹ xâm lược, tên “sen đầm” quốc tế có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh bậc nhất thế giới. Sau 12 ngày đêm chiến đấu với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, dân tộc ta đã chiến thắng, các lực lượng phòng không, không quân của ta đã hạ gục sức mạnh của không lực Hoa Kỳ. Dư luận phương Tây thời đó ví trận thắng này là “trận Điện Biên Phủ trên không”. Mấy chục năm trôi qua, đã có nhiều tác phẩm, tổng kết của lãnh đạo, tướng lĩnh, nhà nghiên cứu lý luận quân sự… ở nhiều chế độ chính trị khác nhau viết về trận “Điện Biên Phủ trên không”. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đều khẳng định chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của sức mạnh chính trị tinh thần, của trí tuệ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, trong đó có nghệ thuật quân sự tài giỏi của một quân đội anh hùng.

Cho đến tháng 10-1972, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã diễn ra hơn nửa năm và giành thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện chiến trường. Trên miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại một bước quan trọng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ; không ngừng tăng cường sức người, sức của vào tiền tuyến lớn, cùng quân và dân miền Nam phát triển cuộc tiến công chiến lược. Tại Pa-ri, cuộc đàm phán giữa ta và Mỹ kéo dài đã bốn năm. Ngày 8-10-1972, Chính phủ ta đưa ra bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, ta và Mỹ đã thỏa thuận hầu hết các nội dung của bản dự thảo, ấn định ngày 22-10-1972 ký tắt tại Hà Nội và 31-10-1972 ký chính thức tại Pa-ri. Nhưng phía Mỹ cố tình dây dưa, muốn đợi qua cuộc bầu cử tổng thống, đồng thời chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới, nhằm giành thế mạnh cả về quân sự và ngoại giao, ép ta phải nhân nhượng theo những điều kiện có lợi cho Mỹ.

Phân tích âm mưu và hành động của địch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định, địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, có nhiều khả năng chúng sẽ dùng máy bay chiến lược B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng… Nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không – Không quân là tập trung mọi khả năng, nhằm đúng máy bay B52 mà tiêu diệt. Kế hoạch chuẩn bị đánh trả và phòng tránh máy bay B52 được quân và dân ta triển khai khẩn trương, tích cực, chủ động, kiên quyết, trong đó lực lượng nòng cốt là Quân chủng Phòng không – Không quân. Chúng ta đã huy động một lực lượng lớn tham gia chiến dịch gồm 6 trung đoàn tên lửa phòng không (loại tên lửa SAM 2), 3 trung đoàn không quân tiêm kích, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo cao xạ, 356 đơn vị pháo, súng máy cao xạ, toàn mạng ra-đa và các lực lượng phục vụ khác.

Ngày 17-12-1972, tổng thống Mỹ R.Ních-xơn ra lệnh mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 mang tên “Lai-nơ Bếch-cơ II” vào Hà Nội, Hải Phòng. Vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 18-12, ra-đa của ta phát hiện máy bay B52 của địch bay vào vùng trời miền Bắc. Từ đó, liên tục 12 ngày đêm, Mỹ đã huy động đến mức cao nhất sức mạnh của không quân chiến lược thực hiện cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số trung tâm công nghiệp ở miền Bắc. Được chuẩn bị chu đáo từ trước, quân và dân ta bước vào cuộc chiến đấu với tinh thần bình tĩnh, tự tin và quyết thắng. Không quân ta đón đánh địch từ vòng ngoài. Bộ đội cao xạ và lưới lửa tầm thấp của dân quân tự vệ bắn “hất” máy bay chiến thuật của địch lên cao. Ra-đa, tên lửa vừa khắc phục các loại nhiễu, phát sóng bắt mục tiêu B52 và phóng đạn tiêu diệt. Cả bầu trời Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và nhiều vùng phụ cận khác được phủ kín lưới lửa phòng không ba thứ quân ở nhiều tầng, nhiều tầm, nhiều hướng.

Đúng 7 giờ ngày 30-12-1972, Chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị gặp đại biểu Chính phủ ta tại Pa-ri, bàn việc ký hiệp định. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn nhất bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng bị đánh bại. Trong 12 ngày đêm, địch đã xuất kích 663 lần máy bay chiến lược B52 và hơn 3.800 lần chiếc máy bay chiến thuật các loại.

Đây là lần đầu tiên quân và dân ta đã tổ chức, thực hành thắng lợi chiến dịch phòng không đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không của địch. Ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay chiến lược B52 và 5 máy bay F111, giáng đòn quyết định vào cố gắng cuối cùng của Mỹ trong năm 1972, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Về nghệ thuật chiến dịch, thành công nổi bật là ta đã đánh giá đúng âm mưu, ý đồ và dự đoán đúng quy luật đánh phá của không quân chiến lược Mỹ. Tổ chức, sử dụng hợp lý lực lượng phòng không ba thứ quân đánh các loại máy bay chiến lược, chiến thuật của địch cả ban ngày và ban đêm. Đặc biệt, tập trung lực lượng tên lửa phòng không đủ mạnh để đánh mục tiêu chủ yếu là B52, trong khu vực tác chiến chủ yếu là Hà Nội. Trong suốt thời gian chiến dịch, nghệ thuật hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng trong Quân chủng Phòng không – Không quân và giữa các lực lượng phòng không của ba thứ quân đã phát triển lên một trình độ cao, làm phong phú nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” rất to lớn, âm hưởng của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của một chiến dịch, góp phần quyết định “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề “đánh cho ngụy nhào” vào mùa xuân 1975. Thắng lợi đó đã kiểm nghiệm sự sáng tạo của một phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng, với nghệ thuật quân sự độc đáo, làm giảm hiệu lực hoặc vô hiệu hóa sở trường tác chiến của đối phương, đồng thời hậu thuẫn kịp thời, đắc lực cho mặt trận đấu tranh ngoại giao. Những bài học về nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức, thực hành chiến dịch phòng không vẫn giữ nguyên giá trị để các cấp, các ngành, các địa phương và lực lượng vũ trang tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Đại tá, TS TRẦN ĐĂNG THANH

qdnd.vn

Điển hình nghệ thuật đánh điểm, diệt viện

Tháng Chín 25, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND – Thực hiện kế hoạch tác chiến Xuân – Hè 1965, Bộ tư lệnh Quân khu 5 mở chiến dịch Ba Gia nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng của chủ lực địch, mở rộng vùng giải phóng, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của địa phương và giữ hành lang nối liền miền núi với đồng bằng Trung Trung Bộ.

Trong chiến dịch này, lực lượng của ta gồm: Trung đoàn bộ binh 1 chủ lực Quân khu 5, Tiểu đoàn bộ binh 45, các đại đội pháo binh, phòng không, trinh sát đặc công và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Ngãi. Địch có một trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn biệt động quân, một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, một tiểu đoàn và 15 đại đội bảo an, một chi đoàn xe thiết giáp.

Theo kế hoạch chiến dịch, đêm 28-5-1965, ta sử dụng Đại đội 2 (Tiểu đoàn 90, Trung đoàn 1) tập kích vào đại đội địch đóng quân dã ngoại ở Diễn Niên để kéo Tiểu đoàn 1 của địch trong đồn Ba Gia ra ứng viện, nhưng khi bộ đội ta tiếp cận thì địch đã cơ động về trú đêm ở núi Tròn. Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh tập kích vào 2 trung đội dân vệ ở chợ Phước Lộc để kéo đại đội địch từ núi Tròn về tiếp ứng, tạo điều kiện cho Đại đội 2, Tiểu đoàn 90 tiêu diệt. Đúng như dự đoán, khi trung đội dân vệ bị tiến công, ngày 29-5, đại đội địch ở núi Tròn lập tức đến ngay. Không để địch biết đã gặp bộ đội chủ lực, ta sử dụng một bộ phận đặc công, trinh sát vừa đánh vừa rút lui như kiểu du kích, làm cho địch bị mắc lừa, điều thêm 2 đại đội còn lại cùng toàn bộ ban chỉ huy tiểu đoàn (có 2 cố vấn Mỹ) ra khỏi đồn để “lùng bắt Việt Cộng”. Tiểu đoàn 90 xuất kích, tiếp cận và đồng loạt nổ súng xung phong tiêu diệt gần hết tiểu đoàn địch, hoàn thành thắng lợi trận then chốt chiến dịch.

Sau đó, địch tổ chức một chiến đoàn với 3 tiểu đoàn bao gồm bộ binh và thủy quân lục chiến chia làm hai cánh quân đi giải tỏa cho Ba Gia. So sánh tương quan lực lượng, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương kiên quyết lập thế trận chia cắt, tách quân địch ra từng tiểu đoàn, không cho chúng liên kết, chi viện lẫn nhau để tiêu diệt từng bộ phận. Bằng các trận đánh liên tiếp, đến cuối ngày 30-5, ta đã “gom” được địch vào mấy cụm cách biệt nhau và buộc địch phải trú quân ban đêm, không kịp xây dựng trận địa. Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị chỉ để lại một bộ phận nhỏ đủ sức vây và kiềm chế địch, còn đại bộ phận củng cố lực lượng chuẩn bị tập kích, quyết tâm tiêu diệt chiến đoàn địch trong đêm. Đến 4 giờ ngày 31-5, ta tiêu diệt hoàn toàn chiến đoàn địch.

Chiến dịch Ba Gia là một trong những chiến dịch đạt hiệu suất chiến đấu cao. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với lực lượng ít hơn địch cả về số tiểu đoàn và vũ khí trang bị, song ta đã tiêu diệt gọn 4 tiểu đoàn chủ lực khá tinh nhuệ của địch. Thành công của chiến dịch thể hiện bước trưởng thành mọi mặt của bộ đội chủ lực miền Nam, trong đó nổi bật về nghệ thuật vận dụng cách “đánh điểm, diệt viện”.

Việc lựa chọn mục tiêu làm “điểm khêu ngòi” đã thể hiện tính dây chuyền trong kế hoạch tác chiến chiến dịch. Ta không lựa chọn “điểm đồn” Ba Gia để “khêu ngòi” mở màn chiến dịch, mà lựa chọn đại đội địch đóng quân dã ngoại. Khi tình hình địch thay đổi, ta chọn “điểm” là chốt bảo an dân vệ ở chợ Phước Lộc, tuy là “điểm” nhỏ, nhưng “nhạy cảm”, đánh vào đó, ta đã dụ được đại đội địch ở núi Tròn quay về ứng cứu. Bộ tư lệnh chiến dịch lại chọn ngay đại đội này làm mục tiêu “khêu ngòi” để tiếp tục lừa dụ Tiểu đoàn 1 cơ động ra khỏi đồn Ba Gia; ta tổ chức đánh viện lớn để câu nhử và diệt viện lớn hơn của địch là chiến đoàn ngụy đi giải tỏa cho Ba Gia.

Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch cũng là một bước phát triển sáng tạo trong chiến dịch. Lực lượng chiến dịch được tổ chức thành các bộ phận, lần lượt thực hiện thắng lợi từng trận đánh. Trận đánh “khêu ngòi”, ta sử dụng trung đội địa phương Sơn Tịnh là đơn vị hoạt động quen thuộc trên địa bàn; khi đại đội địch về tiếp ứng, ta không tập trung lực lượng diệt đại đội này mà chỉ sử dụng một bộ phận trinh sát, đặc công ngăn chặn, vừa đánh vừa rút lui để kích thích, câu nhử địch. Trận then chốt tiêu diệt Tiểu đoàn 1 của địch khi cơ động ra khỏi đồn Ba Gia, Tiểu đoàn 90 nổ súng xung phong vào lúc địch chủ quan, nên hoàn toàn bị bất ngờ; đồng thời, bộ phận hỏa lực trợ chiến của trung đoàn kiềm chế trận địa pháo địch trong đồn Ba Gia, không để chúng chi viện cho lực lượng đang bị tiến công. Sau thắng lợi của trận then chốt mở màn, ta chủ động điều chỉnh, chuẩn bị lực lượng đánh trận then chốt tiếp theo. Trong thực hành tác chiến, ta kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của bộ đội chủ lực với hoạt động tác chiến phối hợp của lực lượng vũ trang địa phương và đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân.

Phân tích nắm chắc quy luật hành động của địch, từng bước điều động, buộc địch phải bị động đối phó theo cách đánh của ta cũng là một thành công nổi bật của nghệ thuật chiến dịch. Bộ tư lệnh chiến dịch đã dự kiến chính xác hành động của địch; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu để giành thắng lợi. Trong thực hành tác chiến, khi yếu tố bất ngờ của phục kích không còn, ta đã linh hoạt chuyển sang vận động tiến công tiêu diệt địch; chuyển hóa từ vận động tiến công ban ngày sang bao vây, kiềm chế và tập kích địch ban đêm; vận dụng linh hoạt thủ đoạn ngăn chặn, bao vây, chia cắt để lần lượt tiêu diệt từng bộ phận quân địch. Sự sáng tạo vận dụng linh hoạt nghệ thuật tác chiến trong chiến dịch Ba Gia là kinh nghiệm quý, cần được nghiên cứu để tiếp tục tổ chức huấn luyện cho bộ đội, phục vụ tác chiến trong điều kiện mới hiện nay.

Đại tá Hoàng Văn Quý

qdnd.vn

Phát triển cao của nghệ thuật giành và giữ quyền chủ động chiến dịch

Tháng Năm 25, 2011 Bình luận đã bị tắt


Chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào

QĐND – Thực hiện mục tiêu “bóp nghẹt” cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam, Mỹ, ngụy mở “Cuộc hành quân Lam Sơn 719” đánh vào vùng Đường 9-Nam Lào. Đây là một trong ba cuộc tiến công quy mô lớn của địch nhằm đánh phá, cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của ta từ gốc, hủy diệt cơ sở hậu cần chiến lược và làm cho lực lượng vũ trang ta ở miền Nam suy yếu, không thể tập trung đánh lớn trong mùa khô năm 1971-1972, để Mỹ dễ dàng thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, giành thế chủ động trên chiến trường.

Để đập tan mưu đồ đen tối của địch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào, chiến dịch quy mô lớn, tác chiến hiệp đồng binh chủng nhằm tiêu diệt lớn quân địch, bảo vệ vững chắc tuyến hành lang vận chuyển chiến lược và hậu phương của ta, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch và đánh phá “bình định” của chúng.

Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào diễn ra trong 52 ngày đêm (từ 30-1 đến 23-3-1971). Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược to lớn, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, tạo thời cơ, điều kiện để ta mở các chiến dịch tiến công tiêu diệt lớn quân địch, giải phóng từng vùng địa bàn chiến lược quan trọng, thúc đẩy tiến trình phát triển của cách mạng miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch khẳng định sự trưởng thành mọi mặt của Quân đội ta, đánh dấu bước phát triển cao của nghệ thuật quân sự nói chung, nghệ thuật chiến dịch phản công nói riêng, trong đó có nghệ thuật giành và giữ quyền chủ động chiến dịch.

Trước đối tượng tác chiến có quân số đông, hỏa lực mạnh, sức cơ động nhanh, nghệ thuật chiến dịch trong chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào đã giải quyết thành công nhiều vấn đề của việc giành và giữ quyền chủ động. Đó là, ta sớm nắm được ý định, phán đoán đúng hướng tiến công chiến lược của địch trong mùa khô năm 1970-1971, chủ động chuẩn bị lực lượng, cơ sở vật chất; chỉ đạo chiến dịch tổ chức trinh sát thực địa, chuẩn bị chiến trường, xây dựng công sự trận địa phòng ngự, luyện tập phương án tác chiến, đồng thời từng bước cơ động triển khai và bố trí lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động đứng chân sẵn trên các khu vực kịp thời đón đánh địch. Ta đã chủ động xây dựng quyết tâm, kế hoạch tác chiến, lựa chọn đúng khu vực tác chiến chủ yếu, làm tốt việc giành quyền chủ động từ tay địch. Trên hình thái chung của chiến trường, ta không chọn đoạn từ Lao Bảo về phía Đông là khu vực tác chiến chủ yếu vì địa hình trống trải, gần các căn cứ lớn do quân ngụy và Mỹ phòng giữ. Nếu chọn khu vực này, khi ta tập trung lực lượng, binh khí kỹ thuật thì khó giữ bí mật, bất ngờ, dễ bị hỏa lực của địch sát thương và không có khả năng tiêu diệt lớn quân địch. Chiến dịch xác định đoạn từ Lao Bảo đến Bản Đông là khu vực tiêu diệt địch chủ yếu, địa hình khu vực này thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng binh chủng, vừa đạt mục đích bảo vệ được các mục tiêu chiến dịch trọng yếu và vừa tiêu diệt lớn quân địch. Ta chủ động không chặn đứng quân địch ở Lao Bảo, để cho chúng vượt qua, tổ chức lực lượng ngăn chặn từng bước và phòng giữ chắc phía tây Bản Đông, kiên quyết không cho địch tiến lên đánh chiếm Sê Pôn. Sử dụng lực lượng tại chỗ ngăn chặn, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, tiêu diệt từng bộ phận, làm suy giảm sức tiến công của địch; đồng thời, sử dụng lực lượng cơ động tập trung đánh những trận then chốt, bẻ gãy cánh quân phía Bắc, đánh thiệt hại nặng cánh quân phía Nam, uy hiếp và bao vây cánh quân chủ yếu, đẩy địch từ thế chủ động ban đầu thành thế bị động, lúng túng, tiến không được, lật cánh, chuyển hướng cũng không thể thực hiện được mục đích hạn chế.

Trong Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào, Bộ tư lệnh chiến dịch đã dự đoán khá chính xác cả 4 tình huống cơ bản và xu thế phát triển của nó, nên đã chủ động sử dụng lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động, từng bước tạo thế chiến dịch có lợi, đưa địch vào mưu kế, thế trận đã chuẩn bị sẵn của ta; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật và thủ đoạn tác chiến, kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự ngoan cường, vững chắc với tích cực chủ động tiến công, thực hành đánh những trận then chốt tiêu diệt lớn quân địch, buộc địch phải dừng lại phòng ngự trong thế bị cô lập, tinh thần hoang mang, phải bỏ lại toàn bộ xe pháo, vũ khí nặng luồn rừng rút chạy.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, chiến dịch phản công là chiến dịch có chủ định, được tiến hành kế tiếp sau chiến dịch phòng ngự, có quan hệ chặt chẽ với tác chiến phòng thủ, phòng ngự trước đó. Ta có điều kiện chuẩn bị trước quyết tâm và phương án tác chiến, chuẩn bị một phần về lực lượng và thế trận từ trong thời bình; đó cũng chính là những yếu tố cơ bản để ta giành và giữ quyền chủ động chiến dịch. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những giá trị lịch sử của nghệ thuật chiến dịch trong Chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào vào điều kiện tác chiến mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.

Đại tá Hoàng Văn Quý

qdnd.vn

Trận Buôn Ma Thuột – đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch

Tháng Tư 14, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trận Buôn Ma Thuột – trận then chốt quyết định giành thắng lợi đã để lại nhiều bài học điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Nó cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong điều kiện hiện nay.

Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975; trong đó, trận Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu, trận then chốt quyết định, có tầm quan trọng đặc biệt, trực tiếp là với chiến dịch Tây Nguyên và ở góc độ nào đó, còn có ý nghĩa chiến lược đối với cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975.

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về quân sự đối với cả miền Nam. Nếu đánh và chiếm được Tây Nguyên sẽ chia cắt hoàn toàn hệ thống phòng ngự chiến lược của địch, buộc chúng lâm vào thế lúng túng, bị động đối phó; còn về phía ta có điều kiện phát triển lực lượng, tiếp tục triển khai hướng tiến công xuống các tỉnh ven biển, các tỉnh miền Đông Nam Bộ, góp phần thúc đẩy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 giành thắng lợi trong thời gian ngắn.

Chiến dịch Tây Nguyên, vì thế, có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự lựa chọn rất đúng đắn, chính xác của ta. Theo đó, việc ta chọn Buôn Ma Thuột để đánh trận mở đầu, trận then chốt quyết định cũng vậy. Bởi vì, đánh chiếm được Buôn Ma Thuột sẽ tạo ra đột biến về chiến dịch, và chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi sẽ dẫn đến đột biến về chiến lược, tạo nên bước ngoặt quyết định, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch. Cho nên, mục tiêu kế hoạch của chiến dịch Tây Nguyên là phải thực hiện bằng được quyết tâm đó, để tạo khí thế, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân không chỉ ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên mà còn trên khắp chiến trường miền Nam. Qua đó, giáng những đòn chí mạng tiếp theo bằng những chiến dịch tiến công đánh bại ý chí chiến đấu của nguỵ quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc Tổng tiến công chiến lược bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi của trận then chốt quyết định – Buôn Ma Thuột đã thể hiện sự sắc sảo của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch, nhất là trong tổ chức, chỉ huy và điều hành chiến dịch của Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên nói chung và trận Buôn Ma Thuột nói riêng; trong đó, trước hết là nghệ thuật sử dụng không gian và thời gian mở chiến dịch. Việc chọn Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu, then chốt quyết định là vấn đề hết sức quan trọng đối với chiến dịch. Vì, Buôn Ma Thuột có vị trí quan trọng trong hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên; diện tích rộng, bình độ thấp so với xung quanh, lại tương đối bằng phẳng, rải rác có một số điểm cao độc lập cách thị xã 2-15 km. Như vậy, đối với ta, sẽ thuận lợi cho quá trình cơ động, triển khai và che dấu lực lượng; còn với địch, khi bị tiến công sẽ khó giữ và khó cơ động ứng cứu, chi viện cho nhau. Đặc biệt, các mục tiêu của địch ở trong và xung quanh thị xã hầu hết là lộ thiên, dễ bị ta phát hiện và tiêu diệt. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Chúng ta đã lợi dụng những yếu tố thuận lợi của địa hình để khai thác, khắc phục mặt yếu và phát huy mặt mạnh của ta; đồng thời, triệt để khoét sâu những điểm yếu và hạn chế những mặt mạnh của địch. Về mặt thời gian, thời điểm nổ súng tiến công của trận đánh Buôn Ma Thuột được Bộ Tư lệnh chiến dịch tính toán kỹ (2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 ta mở màn chiến dịch và kết thúc vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 11 tháng 3); đó là thời điểm thuận lợi nhất để tổ chức tiến công. Trong thời điểm này, mọi hoạt động của địch đều lỏng lẻo và mất cảnh giác, ta cơ động triển khai, bố trí đội hình tiến công bảo đảm giữ được bí mật; khi triển khai xong lực lượng tiến công thì gần sáng, sương mù tan, tạo thuận lợi cho ta phát hiện dễ dàng các mục tiêu lộ thiên của địch để thực hành tiến công tiêu diệt. Ngoài ra, còn có một yếu tố quyết định đến thời gian kết thúc trận đánh, đó là yếu tố về thời tiết. Đây là mùa khô, chưa có mưa, sông suối cạn, rất thuận tiện cho các phương tiện xe cơ giới phát huy được tính năng kĩ thuật, chiến thuật.

Một yếu tố hết sức quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của trận then chốt quyết định, đó là: nghệ thuật xác định hướng, chọn mục tiêu tiến công. Để chọn hướng tiến công, trước hết, phải phân tích khách quan, toàn diện và cụ thể tình hình địch, ta và điều kiện địa hình, thời tiết… Về mặt nguyên tắc, chọn hướng tiến công thường phải chọn vào chỗ hiểm, yếu của địch; đó là nơi địch bố trí lực lượng, phương tiện phòng ngự mỏng, yếu, sơ hở; đồng thời, lại phù hợp với cách đánh, sở trường của ta. Trong chiến dịch Tây Nguyên, ta chọn hướng Nam Tây Nguyên làm hướng chủ yếu, bởi ở nơi đây lực lượng của địch tương đối yếu. Đánh chiếm Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chọn 3 hướng tiến công: Bắc, Nam và Tây; trong đó, hướng Tây là hướng thọc sâu và chọn Sở chỉ huy sư đoàn 23 nguỵ là mục tiêu đột phá chủ yếu. Việc chọn hướng, mục tiêu tiến công đã thể hiện sự sắc sảo, sáng tạo của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên. Bởi vì, Sở chỉ huy Sư đoàn 23 nguỵ là trung tâm chỉ huy, có vị trí quan trọng nhất của địch ở Buôn Ma Thuột; đồng thời, còn là chỗ dựa vững chắc của địch ở khu vực này và Tây Nguyên. Như vậy, chọn Sở chỉ huy sư đoàn 23 nguỵ làm mục tiêu tiến công chủ yếu là ta đã điểm trúng huyệt, đánh vào nơi rất hiểm, nhưng tương đối yếu của địch. Đây là một nguyên tắc trong tác chiến chiến dịch: “bỏ chỗ vững, đánh chỗ núng, tránh chỗ thực, đánh chỗ hư”. Khi Sở chỉ huy sư đoàn 23 nguỵ bị tiến công, có nguy cơ bị tiêu diệt thì địch nhất thiết phải tăng viện, ứng cứu; đó là thời cơ mới để ta tiếp tục bố trí thế trận đón đánh lực lượng địch đến cứu viện ở phía Đông Buôn Ma Thuột. Diễn biến của trận đánh đúng với dự kiến của ta. Buôn Ma Thuột nhanh chóng bị thất thủ đã gây chấn động lớn đến toàn chiến trường Tây Nguyên và lan sang các chiến trường khác; đồng thời, tạo nên những đột biến dây chuyền lớn hơn tiếp theo, khiến chúng không thể chống đỡ nổi, đi đến sụp đổ hoàn toàn.

Đánh chắc thắng trận đầu là một trong những truyền thống quý báu của quân đội ta. Điều đó càng được khẳng định khi nghệ thuật sử dụng lực lượng, bố trí đội hình tiến công đã đạt đến trình độ cao, là yếu tố quyết định thúc đẩy trận đánh Buôn Ma Thuột giành thắng lợi nhanh chóng. Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua. Xét về tương quan lực lượng và vũ khí trang bị ban đầu ở chiến trường Tây Nguyên nói chung, trực tiếp trong trận Buôn Ma Thuột nói riêng, ta không chiếm ưu thế lớn hơn địch; nhưng ta có những ưu thế khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp, mà địch không thể có được; đó là, tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân, đặc biệt là về nghệ thuật quân sự… Do nắm chắc quy luật chiến tranh và tư tưởng chỉ đạo đánh chắc thắng trận đầu cùng với sự chỉ đạo tài tình của Bộ Tư lệnh chiến dịch, chúng ta đã làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta, bất lợi cho địch ở vào thời điểm quyết định. Đây là nét độc đáo của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Trong trận then chốt quyết định này, ta sử dụng lực lượng hơn 2 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng để tiêu diệt lực lượng tương đương 1 trung đoàn tăng cường của địch. Trong khi đó, chúng ta còn phát huy cao độ chiến tranh nhân dân để tạo nên sức mạnh áp đảo đối với địch. Trong trận đánh Buôn Ma Thuột, ta đã tổ chức và bố trí lực lượng một cách khoa học, hợp lí; thành phần gồm: lực lượng tập trung và lực lượng phân tán; lực lượng tiến công và lực lượng nổi dậy; bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch ở đây là sự bố trí đội hình tiến công trên 3 hướng, tạo thành 5 mũi tiến công sắc, nhọn: hướng Bắc 2 mũi, hướng Nam 2 mũi; riêng hướng Tây tổ chức 1 mũi (đây là mũi thọc sâu, đánh thẳng vào mục tiêu chủ yếu là Sở chỉ huy tiền phương – Sư đoàn 23 nguỵ). Trong 5 mũi tiến công thì 4 mũi có xe tăng phối hợp với bộ binh trong đội hình chiến đấu. Với sự sáng suốt của Bộ Tư lệnh chiến dịch trong việc xác định không gian, thời gian mở chiến dịch cộng với nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu tiến công và nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng và bố trí đội hình tiến công, ta đã đánh trận mở đầu giành thắng lợi trong thời gian ngắn, tạo ra những thuận lợi mới cho các trận truy kích và tổ chức đánh các trận kế tiếp thắng lợi.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra) chắc chắn sẽ có những phát triển mới do có sự phát triển mạnh mẽ về vũ khí, trang bị và trình độ tác chiến của cả ta và đối tượng tác chiến. Thế nhưng, nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung và của trận Buôn Ma Thuột nói riêng vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng để góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, một khi địch liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược đối với đất nước ta.

Thượng tá, ThS. ĐỖ HẢI ÂU

Nghệ thuật phối hợp tác chiến giữa binh đoàn chủ lực với bộ đội địa phương trong Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào

Tháng Tư 12, 2011 Bình luận đã bị tắt

Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (từ ngày 30-1 đến 23-3-1971) là chiến dịch phản công (CDPC) có ý nghĩa chiến lược. Chiến dịch thắng lợi để lại nhiều bài học quý báu; trong đó, bài học về sự phối hợp tác chiến giữa binh đoàn chủ lực (BĐCL) với bộ đội địa phương (BĐĐP) là nổi bật nhất, thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế hoạch tác chiến chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 - Nam Lào (1971) (Ảnh tư liệu)

Trước những thắng lợi giòn giã, to lớn của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đầu năm 1971, Mỹ – nguỵ đã nỗ lực tổ chức một lực lượng lớn, bao gồm: các lực lượng dự bị chiến lược, lực lượng cơ động của Quân khu 1, tiếp vận trung ương của quân nguỵ với sự hỗ trợ lớn của bộ binh, thiết giáp, không quân Mỹ, mở “Cuộc hành quân Lam Sơn 719”, nhằm chặn đứng tuyến vận tải chiến lược của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam. Về phía ta, tổ chức lực lượng tại chỗ bao gồm Mặt trận Đường số 9 (B5), Trị Thiên (B4); lực lượng của Đoàn 559 và một số tiểu đoàn đặc công của Bộ; lực lượng cơ động là Binh đoàn 70 – một binh đoàn chiến dịch cấp quân đoàn đầu tiên lớn nhất của quân đội ta, gồm 5 sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, 2) và một số tiểu đoàn, trung đoàn xe tăng – thiết giáp, pháo binh, phòng không, công binh. Đây là bước phát triển mới về tổ chức lực lượng của bộ đội chủ lực ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến dịch diễn ra ở vùng rừng núi biên giới Việt – Lào, thưa dân, lực lượng vũ trang địa phương nhỏ yếu, nơi nhạy cảm về chính trị, gần hậu phương của cả ta và địch. Với sự chủ động, nhạy bén của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ tư lệnh chiến trường Nam Bộ (B2), ta đã tổ chức, sử dụng lực lượng Chiến dịch đúng đắn, nổi bật là sự phối hợp tác chiến chặt chẽ, hiệu quả giữa BĐĐP và BĐCL trong quá trình thực hành Chiến dịch. Nhờ đó, Chiến dịch đã giành thắng lợi, hoàn thành mục tiêu đề ra: làm thất bại cuộc tiến công quy mô lớn của địch, phát triển mạnh mẽ thế chiến lược tiến công không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà cả cách mạng ba nước Đông Dương.

Góp phần vào thắng lợi đó, trước hết, là việc xác định, đánh giá đúng vị trí vai trò, tác dụng, phát huy được sở trường, thế mạnh của mỗi lực lượng và mối quan hệ của chúng trong tổ chức, thực hành đánh bại quân địch tiến công; trong đó, BĐĐP giữ vị trí rất quan trọng trong việc tạo thế ta, phá thế địch, còn BĐCL đóng vai trò quyết định tiêu diệt lớn quân địch. Đây vừa là đặc điểm vừa là kết quả của việc quán triệt sâu sắc tư tưởng tích cực tiến công của ta, vừa để lập thế, tạo thời, thực hiện cách đánh của CDPC. Nhờ có lực lượng BĐĐP tổ chức các hoạt động tác chiến ngăn chặn kịp thời các mũi tiến công, đánh địch rộng khắp trên toàn địa bàn chiến dịch, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó, cả phía trước, phía sau, bên sườn; cùng với đó, nghi binh, lừa địch vào những khu vực ta lựa chọn và chuẩn bị sẵn, tạo điều kiện cho BĐCL thực hiện đánh những trận then chốt (trận then chốt thứ nhất từ ngày 20 đến ngày 25-2, trận then chốt thứ 2 từ ngày 26-2 đến ngày 3-3) tiêu diệt, bẻ gãy từng mũi, từng cánh; nhất là trận then chốt quyết định (từ ngày 12 đến ngày 23-3) tiêu diệt tập đoàn chiến dịch chủ yếu của địch co cụm ở Bản Đông. Kết quả của Chiến dịch: ta đã tiêu diệt1, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công của chúng, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.

Trong CDPC Đường 9 – Nam Lào, ở khu vực diễn ra trận đánh then chốt quyết định (Bản Đông), lực lượng BĐĐP của Đoàn 559 đảm nhiệm chiến đấu tại chỗ đã đạt hiệu suất rất cao, nhất là đơn vị phòng không 12,7 ly được bố trí dày đánh không quân địch từ nhiều hướng, đã bắn rơi 250 chiếc máy bay lên thẳng (chiếm 50% số máy bay lên thẳng bị bắn rơi trong Chiến dịch), một phương tiện cơ động chủ yếu của địch trong cuộc hành quân. Còn ở khu vực phía Đông, lực lượng của B5 cũng liên tục tổ chức đánh địch, phục kích giao thông (đường bộ, đường sông), tập kích vào căn cứ hậu cần, sở chỉ huy, gây cho địch nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện, buộc chúng phải phân tán, tăng thêm lực lượng để giữ phía sau. Ở phía Tây, lực lượng ta và bạn Lào đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn thuộc GM-30, GM-33, buộc chúng phải rút chạy về Xa-ra-van và Đồng Hến… Nhờ đó, Binh đoàn 70, lực lượng nòng cốt của Chiến dịch đang bố trí ở nam Quân khu 4 để sẵn sàng đánh địch theo các phương án dự kiến, nhưng khi được lệnh cơ động vào khu vực địa bàn Chiến dịch (cũng là lúc địch đã vượt qua biên giới – Lao Bảo và chiếm các điểm cao) đã tổ chức hành quân kịp thời triển khai đội hình đánh nhiều trận ác liệt với lữ dù 3, liên đoàn 1 biệt động và tập kích quân địch khi chúng vừa đổ quân chiếm các điểm cao… Điều đó càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của BĐĐP trong việc tạo thế và lực cho chiến dịch. Vì vậy, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định: trong CDPC vấn đề tổ chức, sử dụng và phối hợp chặt chẽ giữa BĐCL với BĐĐP là một sự cần thiết, có tính tất yếu; hai lực lượng này luôn có mối quan hệ tác động qua lại, dựa vào nhau, hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau để phát huy sức mạnh và khả năng tác chiến của mỗi bên, nhằm hoàn thành mục đích, nhiệm vụ của chiến dịch. Trong sự phối hợp đó, phải lấy lực lượng của BĐCL làm nòng cốt, đồng thời phát huy cao độ sức mạnh của BĐĐP.

Hai là, sự phối hợp tác chiến chặt chẽ phong phú, toàn diện không chỉ ở cấp độ chiến thuật, chiến dịch, mà có ý nghĩa chiến lược. Đó chính là sự kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh của chiến tranh nhân dân trong phạm vi Chiến dịch, mà ở đây là CDPC. Chiến dịch đã giải quyết đúng đắn một loạt các mối quan hệ giữa đánh rộng khắp và đánh tập trung, đánh nhỏ, đánh vừa với đánh lớn, tiêu hao và tiêu diệt quân địch; kết hợp tốt các hình thức, biện pháp tác chiến chiến dịch với các hình thức chiến thuật; lấy tiến công, phản công là chủ yếu kết hợp với phòng ngự chiến thuật, chốt chặn, bao vây đột phá tiêu diệt địch với bảo vệ mục tiêu trọng yếu; tận dụng, khai thác và kết hợp hệ thống hậu cần – kỹ thuật, mạng đường giao thông, thông tin liên lạc tại chỗ có sẵn với chuẩn bị tích cực, trực tiếp của chiến dịch; phát huy thế mạnh và sở trường, khắc phục khó khăn của ta với hạn chế cái mạnh, khoét sâu điểm yếu, mâu thuẫn và khó khăn, sai lầm của địch… Đây là những vấn đề then chốt của nghệ thuật chiến dịch đã được vận dụng để giành thắng lợi trong Chiến dịch này.

Nhờ sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ có hiệu quả giữa BĐCL và BĐĐP trong suốt quá trình CDPC, nên Chiến dịch cũng đã giải quyết được các điều kiện và yêu cầu của cấp chiến lược đặt ra cho Chiến dịch, đó là: phải giành quyền chủ động, sớm phá vỡ ý định tiến công của địch, buộc chúng phải hành động theo cách đánh của ta. Ý định chiến dịch xác định ban đầu là không quyết chiến với địch từ Lao Bảo về phía Đông, mà tập trung lực lượng tiến hành những trận tiêu diệt lớn các cụm quân chủ yếu của địch trong khu vực từ biên giới ở Lao Bảo đến Bản Đông, chặn đứng chúng ở lòng chảo Bản Đông và kiên quyết không cho chúng vào Sê Pôn để bảo đảm tuyến vận chuyển chiến lược của ta không bị gián đoạn. Thực tế Chiến dịch đã diễn ra đúng như vậy. Còn phía địch, trong kế hoạch hành quân, phương án hành động của chúng là sử dụng sức mạnh tổng lực của bộ binh, xe tăng, máy bay… thực hành đánh nhanh, giải quyết nhanh, đánh áp đảo và đè bẹp BĐĐP của ta, đánh chiếm xong mục tiêu chiến dịch trước khi BĐCL ta đến khu giao chiến (địch dự kiến sau 15 ngày tiến công của chúng thì BĐCL ta mới đến được Đường số 9). Thế nhưng, thực tế đã không diễn ra theo dự tính của chúng, do lực lượng BĐĐP của ta chặn đánh địch rất mạnh và có hiệu quả, đã tạo điều kiện thuận lợi cho BĐCL tổ chức hành quân, triển khai tiến công địch kịp thời, làm cho địch hoàn toàn bị động lúng túng đối phó.

Ba là, sự phối hợp tác chiến chặt chẽ đã gây cho địch những lúng túng, bất ngờ không những về không gian, thời gian, mà đội hình, thế trận và tổ chức hiệp đồng của chúng cũng bị phá vỡ. Địch bị chia cắt không những phía trước với phía sau, giữa các hướng, các mũi, giữa bộ binh với xe tăng, lực lượng tiến công đường bộ với lực lượng đổ bộ đường không, giữa quân ngụy Sài Gòn với quân ngụy Lào ở phía Tây với quân Mỹ ở phía Đông; không những vậy mà ta còn chặn đứng mọi khả năng chi viện, tiếp tế hậu cần, kỹ thuật và lực lượng kể cả bằng đường không – một trong những thế mạnh của chúng, cô lập từng bộ phận ở các khu vực khác nhau… Ta đã làm cho kế hoạch tác chiến của chúng bị đảo lộn, buộc phải đưa thê đội 2 vào chiến đấu sớm và chuyển hướng tiến công về phía Nam để mở đường lên Sê Pôn, nhưng chúng vẫn không thực hiện được một mục tiêu nào kể cả trong kế hoạch cũng như phương án bổ sung của cuộc hành quân.

Chính sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa BĐCL với BĐĐP theo một ý định và kế hoạch chiến dịch thống nhất từ cấp chiến dịch đến cấp chiến thuật, nên các lực lượng của ta trong CDPC Đường 9 – Nam Lào càng đánh càng mạnh, giành quyền chủ động nhanh, lần lượt bẻ gãy cánh Bắc, đánh thiệt hại cánh Nam, tiêu diệt quân địch trên hướng chủ yếu, kết thúc Chiến dịch thắng lợi. Ngược lại, địch đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của ta ngay từ khi bắt đầu cuộc hành quân, vì thế mà lúng túng, mất dần quyền chủ động, rơi vào thế bị động chống đỡ, suy yếu và thất bại thảm hại.

Ngày nay, nếu chiến tranh xâm lược xảy ra đối với nước ta, địch sẽ mở các chiến dịch tiến công quy mô lớn, phạm vi rộng, thực hiện đánh ác liệt trong thời gian ngắn nhằm đạt được mục đích chính trị của cuộc chiến tranh. Do vậy, ngay trong thời bình, chúng ta phải tập trung đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên từng địa bàn, từng hướng chiến lược; đồng thời, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển, để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của các lực lượng, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt đánh bại chiến dịch tiến công của chúng. Vì thế, cần tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, có cơ cấu cân đối, hợp lý; trong đó, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; đồng thời, phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu phát triển nền khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự hiện đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam lên tầm cao mới. Cùng với đó, coi trọng tổ chức diễn tập các cấp, nhất là trên các địa bàn chiến lược, khu vực phòng thủ, nhằm nâng cao khả năng hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng vũ trang địa phương với các đơn vị bộ đội chủ lực của các quân khu, Bộ trong các loại hình chiến dịch, trong đó có CDPC.

Bài học về sự phối hợp tác chiến giữa BĐCL với BĐĐP trong CDPC Đường 9 – Nam Lào vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, PGS, TS. DƯƠNG ĐÌNH QUẢNG
Học viện Quốc phòng

__________

1- Quân địch: chết và bị thương 20.850, bị bắt 1.142; bị diệt: 3 lữ đoàn, 5 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, bị bắn rơi 556 máy bay, bị phá huỷ 43 tàu xuồng, xà lan, 1.138 xe cơ giới, 112 khẩu pháo, cối, 25 kho.

– Quân ta thu: 2 máy bay lên thẳng, 24 xe các loại, 57 khẩu pháo, 24 cối, 7 khẩu DKZ…

Bỏ nhỏ diệt lớn

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND – “Bỏ nhỏ diệt lớn” là phương châm đánh địch táo bạo của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 33 trong trận chiến đấu phục kích Bến Củi, tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ, ngày 19-8-1968. Trong trận đánh này, Trung đoàn 33 có nhiệm vụ phục kích địch trên đường 239, đoạn từ phía đông làng 3, Bến Củi đến suối Ông Hùng dài khoảng 3,5km.

Thực hiện nhiệm vụ, đúng 20 giờ ngày 17-8-1968, các đơn vị của Trung đoàn 33 đã vào triển khai xây dựng công sự trận địa, làm công sự ngụy trang, cảnh giới. Cán bộ đại đội, trung đội tiếp tục nghiên cứu tình hình, mỗi đại đội cử 2 tổ B40 sẵn sàng đánh địch ngay trong đêm sát đường 239.

Ngày 18-8, từ 7 giờ đến 10 giờ, địch tổ chức một đoàn xe 29 chiếc từ Dầu Tiếng lên làng 3, Bến Củi về trảng Ông Pho đánh vào Đại đội súng máy cao xạ và Đại đội 3, Tiểu đoàn 7. Hai đại đội đã tổ chức đánh trả và tiêu diệt 6 xe. Sáng 19-8, địch có 3 đoàn xe cơ động từ hướng Dầu Tiếng lên. Lúc 7 giờ 30 phút, đoàn đầu tiên có 8 xe dừng lại chốt giữ ở làng 2, làng 3, Bến Củi và phía đông suối Ông Hùng. 8 giờ 25 phút, có 5 chiếc cơ động lên hướng Cầu Khởi. 8 giờ 50 phút, đoàn xe 46 chiếc từ Dầu Tiếng lên, tổ chức một số xe chốt giữ, lùng sục một số vị trí xung quanh, những xe còn lại tỏa đi các hướng.

Chỉ huy trung đoàn nhận định: Địch không phải đi tiếp viện mà đang đi càn để giải tỏa đường 239, Bến Củi, mở đường từ Dầu Tiếng lên Tây Ninh. Ban ngày địch đi càn, chiều và đêm có thể quay về Dầu Tiếng hoặc tiến thẳng về Cầu Khởi – nơi đang bị ta uy hiếp. Như vậy, khi đó địch sẽ mệt mỏi sau một ngày đi càn, lực lượng địch chốt ở các vị trí hai bên đường không phát hiện lực lượng của ta, chưa bị ta đánh nên sẽ chủ quan, không cảnh giác. Quyết tâm của trung đoàn là điều chỉnh đội hình chiến đấu, bằng mọi cách tiêu diệt đoàn xe của địch. Căn cứ vào địa hình, phía bắc đường 239 địa hình trống trải có nhiều đường, xe cơ giới của địch cơ động thuận lợi nên Trung đoàn đã sử dụng Tiểu đoàn 7 (thiếu Đại đội 1) làm lực lượng đối diện, nhiều hơn so với các trận phục kích khác để đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ. Đúng như dự kiến, 17 giờ 30 phút ngày 19-8, đoàn xe của địch cơ động về đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Trung đoàn lệnh cho các đơn vị nổ súng, các Tiểu đoàn 7, 8, 9 và lực lượng dự bị đã phối hợp chặt chẽ, lần lượt tiêu diệt toàn bộ quân địch trong khu vực đảm nhiệm. Đến 19 giờ 20 phút, trung đoàn đã hoàn toàn làm chủ trận đánh, tổ chức thu dọn chiến trường, sau đó nhanh chóng cơ động rời khỏi khu vực tác chiến.

Nhờ có quyết tâm chiến đấu chính xác, không đánh các đoàn xe nhỏ lẻ của địch cơ động, kịp thời điều chỉnh lực lượng, chủ động đánh địch khi chúng trên đường cơ động lực lượng trở về, Trung đoàn 33 đã tổ chức đánh địch “bỏ nhỏ diệt lớn”, đạt hiệu suất chiến đấu cao, tiêu diệt và phá hủy 57 xe M113 và M41, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ, một trung đội biệt kích (có 50 tên), thu nhiều vũ khí trang bị các loại.

Vũ Xuân Dân

Nghệ thuật bảo đảm hậu cần trong Chiến dịch Hồ Chí Minh

Tháng Tư 7, 2011 Bình luận đã bị tắt

Lập thế trận kiên trì, chuẩn bị từ trước

Đoàn xe vận tải hùng hậu trên đường Trường Sơn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ảnh tư liệu.

Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, vai trò của công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật rất quan trọng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “… Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng ở nước ta, cuộc tổng tiến công chiến lược đặt ra những yêu cầu mới rất to lớn, rất phức tạp và khẩn trương về bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, bảo đảm cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật. Các lực lượng Hậu cần đã ra sức vươn lên khắc phục khó khăn, phát huy sáng tạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Thành công của công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là quá trình chuẩn bị chiến trường về hậu cần chu đáo, rất sáng tạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.

Khi có đường lối giải phóng miền Nam bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, ở miền Nam lực lượng vũ trang từng bước phát triển ngày càng lớn mạnh, căn cứ địa cách mạng được xây dựng tiến dần thành khu giải phóng, các cơ sở hậu cần được xây dựng, phát triển thành các căn cứ hậu cần trên từng khu vực. Trong điều kiện và hoàn cảnh nước ta phải tiến hành chiến tranh chống kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta nhiều lần, để bảo đảm hậu cần cho chiến dịch giành thắng lợi trong điều kiện thời gian chuẩn bị trực tiếp ngắn phải có sự chuẩn bị chiến trường về hậu cần kiên trì, toàn diện từ trước.

Từ năm 1959, tuyến đường giao thông vận tải chiến lược Trường Sơn được xây dựng, đến năm 1968 đã vươn tới chiến trường Nam Bộ. Sau Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, việc chuẩn bị chiến trường và chuẩn bị cho tiến công lớn được đẩy mạnh toàn diện ở hậu cần các cấp; tuyến đường giao thông chiến lược Trường Sơn mở rộng thành hệ thống vận tải cơ giới ở cả phía Tây và phía Đông Trường Sơn, nối liền với các chiến trường miền Nam. Tuyến đường ống xăng dầu dọc theo tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn được xây dựng đã bảo đảm xăng dầu cho các trung đoàn, sư đoàn vận tải ô tô, tăng sức vận tải vật chất, binh khí kỹ thuật và cơ động lực lượng cho các chiến trường. Song cùng với công tác xây dựng đường sá, hậu cần chiến lược đã dồn vật chất, phương tiện kỹ thuật ra phía trước, tổ chức các kho dự trữ chiến lược trên các hướng. Do vậy chỉ hơn hai năm, hậu cần chiến lược đã chuyển tới chiến trường hơn 300.000 tấn vật chất hậu cần-kỹ thuật, vừa bảo đảm cho các lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến, vừa dự trữ cho chiến dịch.

Cùng với công tác chuẩn bị của hậu cần chiến lược, trong hai năm 1973-1974, hậu cần Miền cũng ra sức chuẩn bị cho chiến dịch. Các căn cứ hậu cần Miền ngày càng được củng cố, hệ thống đường vận tải cơ giới được mở rộng nối liền các căn cứ hậu cần, tạo thế đứng chân vững chắc trên các hướng, bảo đảm cơ động cao.

Khi có quyết tâm Chiến dịch Hồ Chí Minh, thời gian chuẩn bị trực tiếp cho chiến dịch chỉ có 22 ngày đêm, khối lượng vật chất mới dự trữ được 40.000 tấn trong 60.000 tấn theo nhu cầu, đạn pháo lớn, phương tiện vận tải còn thiếu rất nhiều. Trước tình hình đó hậu cần chiến dịch đã quyết tâm khắc phục khó khăn bằng một số giải pháp: Dựa vào thế trận hậu cần chiến trường đã được chuẩn bị từ trước, nhanh chóng điều chỉnh lực lượng triển khai tiến lên phía trước hình thành thế trận mới liên hoàn vững chắc bao quanh Sài Gòn phù hợp với quyết tâm chiến dịch, có chiều sâu từ hậu phương chiến trường, chiến dịch tới các hướng tác chiến, tiếp cận các quân đoàn, có lực lượng hậu cần cơ động theo các đơn vị thọc sâu. Toàn bộ lực lượng hậu cần quân đội được huy động khẩn trương, kết hợp với động viên sức mạnh của cả nước, ở hậu phương lớn và trên địa bàn chiến dịch, tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân làm công tác hậu cần.

Để bảo đảm cầu đường thông suốt từ hậu phương lớn vào chiến trường, Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn phải bảo đảm tuyến đường giao thông vận tải ở phía Tây Trường Sơn, đồng thời điều động một số trung đoàn công binh sang tuyến quốc lộ 1 sửa chữa cầu đường bị địch đánh phá trong quá trình tháo chạy. Trên địa bàn tác chiến chiến dịch, mạng đường vận tải chiến dịch được tổ chức thành 6 tuyến vận tải từ hậu phương chiến dịch đến các hướng tác chiến xung quanh Sài Gòn, đồng thời tiếp tục mở thêm một số tuyến vượt qua Đồng Tháp Mười sang phía Tây và Nam Sài Gòn. Lần đầu tiên hậu cần chiến dịch kết hợp sử dụng cả đường bộ, đường thủy và đường không để vận chuyển vật chất và cơ động lực lượng. Phục vụ chiến dịch, ngành hậu cần đã huy động số lượng lớn phương tiện vận tải chiến lược, toàn bộ phương tiện vận tải của các quân đoàn, binh chủng, quân chủng, đồng thời huy động thêm phương tiện của các cơ quan Nhà nước và nhân dân vùng mới giải phóng. Kết quả đã huy động được cho chiến dịch khoảng 7.064 xe ô tô các loại, 656 ghe xuồng, 63.432 dân công để vận chuyển vật chất và cơ động lực lượng. Trong đó riêng giai đoạn chuẩn bị trực tiếp, hậu cần chiến dịch đã sử dụng 1.080 xe ô tô (tương đương khoảng 10 tiểu đoàn) để chuyển gấp 4.313 tấn đạn từ hậu phương và các quân khu mới giải phóng vào phục vụ chiến dịch.

Công tác giao thông vận tải trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã phát huy được những kinh nghiệm từ các chiến dịch trước, đồng thời rất linh hoạt, táo bạo, đã kịp thời giải quyết các khó khăn, tình huống đặt ra. Cơ quan tham mưu hậu cần và vận tải đã luôn nắm vững tình hình, bám sát các tình huống tác chiến, có kế hoạch điều chỉnh lực lượng, phương tiện vận tải kịp thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân binh chủng với quy mô lớn, tính cơ động cao, tốc độ nhanh, giành thắng lợi hoàn toàn.

36 năm trôi qua, song bài học chuẩn bị chiến trường về hậu cần và chỉ đạo, chỉ huy giao thông vận tải Chiến dịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu kế thừa, phát triển vào xây dựng tiềm lực, chuẩn bị thế trận hậu cần trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Đại tá Đỗ Đắc Yên

Nghệ thuật huy động sức mạnh đánh địch

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nhân dân Sài Gòn đón chào quân Giải phóng trong ngày 30-4-1975. (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN)

Quy luật chung trong chiến tranh và tác chiến, sức mạnh đánh địch có vị trí rất quan trọng, giữ vai trò quyết định giành thắng lợi. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế binh vận và ngoại giao. Quá trình đánh địch, chúng ta đã kết hợp tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, tiến hành thành công nhiều trận đánh lớn, chiến dịch, nhất là chiến dịch chiến lược. Trong tác chiến các lực lượng đã đánh địch trên nhiều môi trường, phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương, tổ chức và tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Nét nổi bật trước hết là chúng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đường lối tiến hành chiến tranh của Đảng, là tiến hành chiến tranh nhân dân. Tổ chức thực hiện thành công đường lối, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, trên mọi miền đất nước đẩy mạnh đánh địch. Về cách đánh, quân và dân ta đã đánh địch trên nhiều mặt trận. Cùng với mặt trận quân sự, trên mặt trận chính trị ta đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân và dư luận thế giới thấy rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến; chính sách hòa hợp dân tộc là nguyện vọng chính đáng của toàn dân, làm rõ bản chất chính quyền tay sai mưu toan chia cắt đất nước lâu dài của kẻ thù…

Trên mặt trận kinh tế cùng với phát triển hậu phương miền Bắc, ta đẩy mạnh phát triển kinh tế ở vùng giải phóng, thông qua cơ sở chính trị để mua hàng hóa trong vùng địch tạm chiếm, vận chuyển ra, tăng cường khả năng dự trữ cho chiến đấu. Trong công tác binh vận, ta thuyết phục, giác ngộ những binh sĩ, những người lầm đường, lạc lối giúp họ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, trở về phục vụ cách mạng…

Trên mặt trận ngoại giao, sau hiệp định Pa-ri được ký kết, ta tiếp tục đấu tranh, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cả nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam… Có thể nói ta đã phát huy cao nhất sức mạnh và cách đánh sở trường của từng lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng quân địch.

Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

Đặc điểm trong chiến tranh giải phóng, lực lượng ngụy quân luôn coi trọng thiết lập hệ thống đồn bốt, tạo thế để hệ thống ngụy quyền kìm kẹp nhân dân. Trong tổng tiến công các lực lượng đã kết hợp rất chặt chẽ tiến công quân sự với nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ của nhân dân. Trong tiến công quân sự, ta đã phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, phá tan hệ thống đồn bốt, chỗ dựa chủ yếu của lực lượng ngụy quyền, tạo thế có lợi để nhân dân nổi dậy đấu tranh. Trong đấu tranh các tầng lớp nhân dân đã nhất tề đứng lên diệt ác, phá kìm, lật đổ hệ thống chính quyền tay sai, giải phóng quê hương, phát triển tiềm lực cách mạng.

Chúng ta đã phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.

Trong tiến công chiến lược, quân và dân ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương đánh địch rộng khắp trên toàn chiến trường, sát thương, phân tán, căng kéo, làm suy yếu quân địch. Buộc chúng phải dồn sức, tung cả lực lượng tổng dự bị chiến lược ra chiếm giữ vùng 1 và vùng 3 chiến thuật. Đây là điều kiện và thời cơ có lợi để ta tập trung các binh đoàn chủ lực mạnh, đánh lớn, giành thắng lợi quan trọng. Mở đầu là Chiến dịch chiến lược tiêu diệt địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, trên đường 7, đường 21, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, phát triển xuống giải phóng các tỉnh đồng bằng Trung bộ, chia cắt quân địch về chiến lược. Tạo thế có lợi, phối hợp chiến trường, quân và dân ta đã đẩy mạnh đấu tranh và đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, từ Quảng Trị đến đồng bằng Nam Bộ. Nắm thời cơ, quân và dân Trị Thiên, Quân khu 5, đã mở liên tiếp hai chiến dịch lớn tiến công địch, giải phóng hai thành phố Huế và Đà Nẵng, nối liền hậu phương chiến lược miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.

Đánh địch trên nhiều môi trường đất liền, biển, đảo và trên không.

Cùng với đánh địch trên đất liền, quân và dân ta còn tiến ra đánh địch trên vùng biển của Tổ quốc. Ta đã giải phóng nhiều đảo và quần đảo do quân ngụy chiếm đóng, khẳng định và bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước, tạo thế chia cắt chiến lược trên nhiều môi trường với lực lượng địch còn lại. Tạo thế có lợi để ta chi viện cho chiến trường tác chiến.

Phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta không chỉ phát huy sức mạnh đánh địch ở tiền tuyến lớn miền Nam. Mà ta còn động viên sức mạnh đấu tranh trên các mặt trận, cũng như sự chi viện rất lớn về vật chất cũng như tinh thần từ hậu phương chiến lược miền Bắc. Hội đồng chi viện cho chiến trường được thành lập. Hàng vạn quân, cả binh đoàn cơ động chiến lược, hàng chục vạn tấn vật chất, cùng nhiều phương tiện tác chiến hiện đại được gấp rút đưa vào chiến trường, bằng nhiều đường và phương tiện vận chuyển bộ, thủy, không. Phát huy sức mạnh đánh địch ở cả tiền tuyến lớn miền Nam và hậu phương chiến lược miền Bắc, đã tạo ra thời cơ có lợi để quân và dân cả nước thực hiện quyết tâm chiến lược: Giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa.

Tổ chức, tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giành thắng lợi quyết định chiến tranh

Chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hình thành trong quá trình tiến công chiến lược, nhiệm vụ đặt ra rất cao, thời gian chuẩn bị lại rất ngắn. Thực hiện phương châm chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, chắc thắng. Trong thời gian ngắn ta đã khẩn trương cơ động tập trung lực lượng lớn, tương đương 5 quân đoàn, cùng nhiều sư và lữ đoàn của các quân chủng, binh chủng. Các lực lượng của ta đã triển khai hình thành 5 hướng tiến công mạnh, bao vây, chia cắt địch ở nhiều cấp. Lực lượng chính trị và nhân dân trên địa bàn chiến dịch được chuẩn bị, sẵn sàng tham gia đấu tranh trên các mặt trận và phối hợp đánh địch trong quá trình tác chiến. Tạo được sức mạnh ưu thế về vật chất và tinh thần, ta đã đồng loạt tiến công mạnh, đánh địch trên cả 5 hướng. Các lực lượng đã nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch phòng ngự ở tuyến ngoài, các binh đoàn thọc sâu mạnh, đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu bên trong nội đô, như: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy… hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Có nghệ thuật tạo sức mạnh, lại vận dụng sáng tạo cách đánh, quân và dân ta đã đánh nhanh, giành thắng lợi quyết định chiến dịch quyết chiến chiến lược, tạo thế để quân và dân đồng bằng Nam Bộ đẩy mạnh đánh địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Bài học thành công về phát huy sức mạnh đánh địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975, rất cần được các cấp và các ngành nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng, cũng như chuẩn bị và đánh địch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới.

Thiếu tướng, PGS, Tiến sĩ Bùi Thanh Sơn

Chiến dịch Hồ Chí Minh – một điển hình của nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của Cuộc Tổng tiến công chiến lược, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Nó là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, với đặc trưng “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, giành thắng lợi hoàn toàn, triệt để, trong thời gian ngắn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 gồm ba chiến dịch kế tiếp: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực chất, đây là ba đòn tiến công có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó, chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4 – 30-4-1975) là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đây là chiến dịch đã tận dụng được và phát huy cao độ thế chiến lược do các chiến dịch trước (Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng) tạo ra để tập trung lực lượng với ưu thế áp đảo quân địch cả về lực lượng, thế trận và tinh thần. Chiến dịch đó phát huy cao nhất sức mạnh của các binh đoàn, binh chủng hợp thành với quy mô lớn nhất, đập tan tuyến phòng thủ của địch ở vòng ngoài; đánh thẳng vào trung tâm đầu não, sào huyệt của địch, kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).

Nét đặc sắc của Chiến dịch Hồ Chí Minh là: đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch – ta, kiên định thực hiện chủ trương của Bộ Chính tri, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Chỉ huy là tập trung lực lượng, chọn thời cơ, tiến công kiên quyết, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để.

Về địch, chúng đang ở thế “co cụm” phòng ngự, với lực lượng tập trung tương đương 2 quân đoàn, được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại cùng với số lượng khá lớn quân địa phương. Đây còn là “Thủ đô”, có các cơ quan đầu não của ngụy quyền, ngụy quân; chúng sẽ ngoan cố chống cự, mặc dù hoang mang, dao động. Cụ thể, lực lượng của chúng gồm: Quân đoàn 3 hoàn chỉnh (chỉ có Sư đoàn 18 bị tổn thất do mới bị đánh ở Xuân Lộc); lực lượng Tổng dự bị chiến lược (2 sư đoàn thiếu là: sư đoàn lính dù và thủy quân lục chiến); lực lượng Biệt khu Thủ đô bảo vệ nội thành; 4 sư đoàn dù (18, 5, 25, 22), 2 sư đoàn thiếu (dù và thủy quân lục chiến, mỗi sư đoàn còn 2 lữ đoàn); 3 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn 3 xe tăng-thiết giáp; 3 sân bay (kể cả sân bay Trà Nóc, Cần Thơ) với 1.360 phi cơ; hải quân còn 1.460 tàu, xuồng…; quân địa phương còn 7 liên đoàn bảo an, vài trăm trung đội dân vệ, 17.000 cảnh sát. Địch bố phòng thành 3 tuyến: tuyến ngoài cùng và tuyến 2, do 4 sư đoàn đảm nhiệm, bố trí trong các căn cứ trước đây thành các cụm cứ điểm mạnh ngăn chặn hướng tiến công của ta. Trong nội thành, phân thành 4 khu vực phòng thủ, do 2 sư đoàn (thiếu) dù và thủy quân lục chiến, 3 liên đoàn biệt động quân, các liên đoàn bảo an, các trung đội dân vệ và cảnh sát đảm nhiệm. Tổng quân số của địch ước khoảng 35 vạn (25 vạn quân chiến đấu, 10 vạn quân hậu cần).

Về ta, lúc tập kết đầy đủ trước khi tiến công, bao gồm: 5 quân đoàn binh chủng hợp thành (15 sư đoàn); 1 lữ đoàn, 10 trung đoàn đặc công và bộ binh; 17 tiểu đoàn bộ binh và biệt động thuộc các tỉnh (thành phố); 35.000 cán bộ địa phương và hàng triệu quần chúng. Tổng quân số của ta: 28 vạn quân chiến đấu cùng 17 vạn quân hậu cần (45 vạn quân). So sánh lực lượng trong  chiến dịch: ta hơn địch 1,5 đến 2 lần; về lực lượng, ta có ưu thế về xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, có pháo cao xạ bảo vệ trên không. Còn về nhân tố tinh thần, ý chí “quyết chiến, quyết thắng” thì ta có ưu thế tuyệt đối so với quân địch. Nếu ta giải quyết tốt về cách đánh thì khả năng tiến công rất lớn, bảo đảm chắc thắng trong thời gian ngắn.

Căn cứ vào quyết tâm và kế hoạch chiến dịch được phê chuẩn, Bộ Tư lệnh chiến dịch (BTLCD) tổ chức 5 cánh quân tiến công (đột phá, thọc sâu) trên 5 hướng vào 5 cụm mục tiêu chủ yếu. Cánh quân Đông Nam do Quân đoàn 2 đảm nhiệm, đột phá từ hướng Đông Nam đánh chiếm cụm mục tiêu Bộ Tư lệnh Hải quân, Cảng Hải quân và Thương cảng; sau khi hoàn thành nhiệm vụ bước đầu, tiếp tục thọc sâu đánh chiếm Dinh Độc Lập (lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975). Cánh quân hướng Đông do Quân đoàn 4 đảm nhiệm, đột phá từ hướng Đông theo Đường số 1, được chỉ định đánh chiếm cụm mục tiêu Dinh Tổng thống và tiếp quản Thành phố (quá trình tiến công bị địch ngăn chặn nên tiến chậm). Cánh quân phía Bắc do Quân đoàn 1 đảm nhiệm, đột phá từ phía Bắc, đánh chiếm cụm mục tiêu Bộ Tổng tham mưu địch. Cánh quân phía Tây Bắc do Quân đoàn 3 đảm nhiệm, đột phá đánh chiếm căn cứ không quân Tân Sơn Nhất – Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tư lệnh Dù. Cánh quân Tây Nam do Đoàn 232 đảm nhận, đột phá từ hướng Tây Nam, cắt đứt lộ 4, đánh chiếm mục tiêu Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô. Cùng với đó là hướng phối hợp do cánh quân chính Nam (gồm 2 trung đoàn độc lập số 88 và 24) từ nam Long An vượt qua Cần Giuộc, Cần Đước, qua cầu chữ Y, đánh chiếm Nha Cảnh sát của địch.

Hiệp đồng chặt chẽ giữa các cánh quân trong tác chiến chiến dịch. Đêm 26-4 (rạng sáng 27-4), các lực lượng chiến dịch thực hành tiến công địch theo nhiệm vụ được phân công. Riêng cánh quân Đông Nam đề nghị nổ súng sớm hơn, bắt đầu từ 17 giờ ngày 26-4 vì phải tiến xa mới vào được trung tâm Thành phố; BTLCD đã đồng ý. Theo kế hoạch hiệp đồng, trước 6 giờ 30 ngày 30-4-1975, các cánh quân phải chiếm được các ngoại ô thành phố, các đơn vị pháo chiến dịch ngừng bắn; chỉ có pháo của các lực lượng tiến công trước bắn chi viện theo yêu cầu của bộ binh, xe tăng của từng hướng khi tiến công vào trung tâm thành phố. Từ 6 giờ 30 phút trở đi (cũng là giờ thống nhất tổng công kích vào các mục tiêu đã được phân công), việc đánh chiếm trung tâm Thành phố theo kế hoạch hiệp đồng binh chủng và thực hiện sau này cũng sát đúng như vậy.

Phương pháp tác chiến chiến dịch (cách đánh) được xác định: bỏ hẳn các căn cứ quân sự tuyến ngoài cùng của địch, chỉ để bộ phận nhỏ chủ lực và quân địa phương bao vây kiềm chế; chia cắt đội hình các sư đoàn phòng ngự tuyến ngoài cùng và tuyến 2, sẵn sàng diệt địch, không để chúng rút lui, co cụm về thành phố; diệt một số căn cứ quân sự thật cần thiết trên tuyến 2 cản trở đến các mũi nhọn đột phá, thọc sâu; đồng thời, tổ chức lực lượng mạnh, gồm sư đoàn bộ binh mạnh tăng cường công binh, xe tăng, xe bọc thép, xe tải, thọc sâu đánh chiếm các cụm mục tiêu được phân công. Các cánh quân đã thực hành tiến công dồn dập liên tục 4 ngày, đêm, với tốc độ đột phá 15-20 km/ngày, đêm. Từ 17 giờ ngày 26-4 đến 11 giờ 30-4, đã đánh chiếm Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu và các cụm mục tiêu khác, buộc địch phải đầu hàng không điều kiện. Tiếp đó, đối với đồng bằng Sông Cửu Long, lực lượng tại chỗ đã kết hợp với lực lượng nổi dậy giải phóng 17 tỉnh (không phải mở chiến dịch như đã dự kiến). Cùng với đó là việc giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo trên biển Đông.

Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về nghệ thuật tiến công quân địch bằng chiến dịch hiệp đồng binh chủng. Đó là:

Tính kế hoạch trong tổ chức hiệp đồng. Cơ sở của công tác tổ chức hiệp đồng là quyết tâm, kế hoạch tác chiến chiến dịch. Kế hoạch tác chiến hiệp đồng binh chủng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng đến công tác chuẩn bị chiến trường, theo hướng: đánh lớn, hiệp đồng binh chủng với tốc độ phát triển nhanh trên tất cả các hướng, để tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch có số quân đông và trang bị hiện đại khi thời cơ xuất hiện. Nội dung chuẩn bị là nghiên cứu kỹ cách đánh; cải tiến vũ khí, trang bị, tăng cường và nâng cao sức cơ động, khả năng đảm bảo hậu cần-kỹ thuật cho các binh đoàn cơ động chiến lược, chiến dịch; tăng cường tiếp tế nhiên liệu, đạn dược, lương thực, thực phẩm vào chiến trường; xây dựng căn cứ địa và hậu phương tại chỗ ở khắp nơi và tích cực bổ sung nguồn vật chất dự trữ nơi địa bàn cơ động.

Chuẩn bị lực lượng mạnh, sẵn sàng chiến đấu cao, bố trí sẵn theo ý định, kết hợp với cơ động thần tốc để tập trung lực lượng ở trọng điểm. Nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch là khéo kết hợp các lực lượng cơ động chiến lược với lực lượng địa phương tại chỗ, lực lượng bố trí sẵn và lực lượng cơ động từ xa tới. Do lực lượng, binh khí-kỹ thuật của ta có hạn, để chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân-binh chủng giành thắng lợi, phải sử dụng hết sức tiết kiệm vũ khí, phương tiện, đạn dược, nhất là các loại vũ khí tiến công như xe tăng, thiết giáp, pháo lớn, xe vận tải…

Để sử dụng lực lượng binh chủng linh hoạt và điều chỉnh cách đánh kịp thời, phải nắm chắc tình hình theo sự phát triển của tình huống chiến dịch. Khi địch đang ổn định, có chuẩn bị, có tổ chức, thì phải tập trung hơn địch ở trọng điểm; đánh có chuẩn bị, hiệp đồng chặt chẽ, chắc thắng. Khi địch sơ hở, bối rối, như đang rút lui, đang điều chỉnh chiến lược hay đang tan rã, thì vấn đề chính lại là thời cơ – không chờ tập trung đủ mới đánh; thực hiện đánh chia cắt, bao vây, đánh sân bay, hải cảng, đánh viện binh, đánh đường rút lui là chính. Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch thì tập trung lực lượng đến mức cao nhất và đảm bảo chắc thắng. Cùng với đó, phải phát huy hết chỗ mạnh của từng binh chủng, trong từng tình huống một cách thích hợp như: dùng xe tăng trong tiến công hành tiến, thọc sâu; dùng đặc công đánh chiếm và giữ đầu cầu; dùng pháo phòng không phong tỏa sân bay; dùng không quân uy hiếp tinh thần địch v.v.

Tổ chức lực lượng chiến dịch hợp lý, khoa học giữa các thành phần binh chủng, giữa lực lượng chiến đấu và bảo đảm chiến đấu. Các sư đoàn, quân đoàn bộ binh phải được cơ giới hóa toàn bộ hay từng phần mới nâng cao được tốc độ tiến công, có khả năng hiệp đồng chặt chẽ với các binh chủng kỹ thuật và phát huy được sức mạnh đột kích mạnh. Phải có hỏa lực tầm xa; cải tiến các phương tiện chỉ huy, thông tin, trinh sát mới bảo đảm tác chiến hiệp đồng quân-binh chủng tốt. Phải hết sức coi trọng lực lượng công binh cơ giới làm cầu đường, vượt sông trong thành phần các lực lượng công binh. Ngoài ra, việc lấy trang bị, vũ khí của địch để đánh địch có ý nghĩa hết sức quan trọng, có tác dụng khôi phục và phát triển sức chiến đấu của binh chủng; giải quyết được những khó khăn về đảm bảo hậu cần, kỹ thuật rất lớn cho các quân chủng, binh chủng, nhất là khi đang cơ động tiến công. Thực tiễn Chiến dịch Hồ Chí Minh cho thấy, số đạn lấy được của địch đem vào các mặt trận trong chiến dịch này chiếm 71% tổng số đạn mang theo. Để phát triển tốt điểm này, ngay từ khi lập kế hoạch tiến công đã phải có chủ trương và biện pháp thu hồi trang bị, vũ khí của địch để đánh địch. Khi chiến dịch còn phát triển, cần quy định cho các đơn vị được phép trang bị, sử dụng ngay những thứ cần thiết lấy được của địch để chiến đấu. Cùng với đó, có kế hoạch trước trong việc hướng dẫn bộ đội sử dụng các trang bị, vũ khí của địch.

Theo: Ha Thanh- TC-QPTD-04-2010

Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Cách đây 35 năm, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 đánh đấu bước phát triển vượt bậc nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ.

Thực hiện quyết tâm của Đảng, trong 2 năm 1973-1974, quân và dân ta tích cực làm mọi công tác chuẩn bị, nhanh chóng thành lập các quân đoàn chủ lực, đưa hàng vạn thanh niên, nhân viên kỹ thuật miền Bắc vào tăng cường cho miền Nam. Đẩy mạnh tiến công địch ở địa bàn Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng. Đặc biệt sau giải phóng Phước Long (6-1-1975), thấy rõ khả năng suy giảm của quân ngụy và khả năng khó quay lại của quân Mỹ, chớp thời cơ thuận lợi đó, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Mở đầu cuộc tổng tiến công, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên, được sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Tổng tư lệnh, ta đã chủ động tạo ra được nhiều thời cơ thuận lợi.

Trước hết, là thời cơ đánh trận mở màn then chốt chiến dịch, trận Buôn Ma Thuột, để giữ vững quyền chủ động, ta thực hiện nghi binh, cắt toàn bộ các con đường 19, 7, 21, 14, cô lập địch ở Buôn Ma Thuột, vây chặt tập đoàn chủ yếu của địch ở bắc Tây Nguyên, không cho chúng tăng cường, ứng cứu Buôn Ma Thuột một cách dễ dàng, mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta triển khai lực lượng. Sau khi tạo ra thời cơ mới, rạng sáng 10-3-1975, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Địch chưa kịp trở tay, phán đoán, hành động, thì trưa 11-3 ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột.

Thứ hai, nắm vững thời cơ đánh đòn thứ nhất giành thắng lợi tốt đẹp, ta chủ động tạo ra thời cơ mới, gây cho địch khó khăn mới, buộc chúng phải phạm sai lầm mới. Chính những sai lầm mới của địch lại tạo ra thời cơ mới cho ta. Do đó, nghệ thuật tạo và nắm thời cơ lúc này là: phán đoán, hạ quyết tâm, xử lý đúng đắn, kịp thời để khỏi bỏ lỡ thời cơ, củng cố và phát triển thắng lợi vừa mới giành được, đó là đánh địch phản kích.

Trong Chiến dịch Tây Nguyên, tình huống và thời cơ đánh địch phản kích đã được dự kiến trong kế hoạch chiến dịch và xuất hiện đúng như ta đã dự kiến. Vì vậy, ta đã biến thời cơ thuận lợi đó thành kết quả thắng lợi giòn giã, đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích của Sư đoàn bộ binh 23(-) và Liên đoàn biệt động 21 (từ ngày 12 đến 18-3) đập tan hy vọng giành lại Buôn Ma Thuột, đẩy địch vào những sai lầm nghiêm trọng hơn, đó là rút bỏ Tây Nguyên vào ngày 15-3-1975. Tình huống mới, thời cơ mới lại xuất hiện, lực lượng rút chạy là lực lượng lớn nhất, đông nhất của Quân đoàn 2 ngụy, gồm phần lớn các đơn vị chủ lực của địch. Nắm thời cơ đó, từ ngày 16 đến 24-3, ta mở cuộc truy kích thần tốc tiêu diệt toàn bộ địch rút chạy trên đường số 7, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.

Đồng thời với Chiến dịch Tây Nguyên, Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5, Quân đoàn 2 nhanh chóng tiến công địch trong hành tiến, giải phóng Trị Thiên và Nam Ngãi. Thời cơ mới tiếp tục xuất hiện ở Trị Thiên và Nam Ngãi. Khi phát hiện ra thời cơ, Bộ Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị thực hiện chia cắt chiến lược, cô lập Huế – Đà Nẵng, tập trung lực lượng, tiêu diệt địch ở Trị Thiên – Huế và Quảng Ngãi – Quảng Nam, không cho địch co cụm về  Đà Nẵng.

Trên địa bàn Trị Thiên-Huế, trên cơ sở phương án đã chuẩn bị, nắm vững thời cơ, các đơn vị của Quân đoàn 2, Quân khu Trị Thiên, nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 1 ngụy, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 và các đơn vị bộ binh, binh chủng của địch, giải phóng thành phố Huế (10 giờ ngày 25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Trên địa bàn Quân khu 5, các đơn vị Quân khu đồng loạt tiến công địch ở Quảng Nam-Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 2 ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ, toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi, căn cứ Chu Lai, cắt đường 1 ở phía nam từ Tam Kỳ đi Đà Nẵng, tạo ra thời cơ thuận lợi cho giải phóng Đà Nẵng. Nắm thời cơ đó, ngày 27-3, các binh đoàn thọc sâu của ta bỏ qua các mục tiêu vòng ngoài, tiến thẳng vào thành phố Đà Nẵng.

Sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế – Đà Nẵng, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến, ta đã chủ động tạo thế và thời cơ cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”. Các sư đoàn chủ lực của ta phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến về giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung…

Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực của ta đã triển khai trên 5 hướng theo thế bao vây, chia cắt. Đúng 17 giờ ngày 26-4, cuộc tiến công Sài Gòn bắt đầu, với thế trận bao vây và sức mạnh áp đảo, tư tưởng chỉ đạo là: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Chiều 28-4, các sư đoàn địch phòng ngự ở vòng ngoài đã bị ta tiêu diệt và làm tan rã.  Từ sáng 29 đến 30-4, các cánh quân ta trên các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đưa cách mạng Việt Nambước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Đã 35 năm trôi qua trên đất nước ta, khí thế hào hùng của ngày đại thắng, cũng như bài học về nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, bổ sung phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một tầm cao mới, triệt để tận dụng thời cơ thuận lợi mà Đảng, Nhà nước, nhân dân tạo ra, để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ