Lưu trữ

Posts Tagged ‘Việt Nam’

Thắng lợi của nghệ thuật hiệp đồng tác chiến

Tháng Chín 25, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trận “Điện Biên Phủ trên không”

Boeing B-52 dropping bombs.jpg

Máy bay B52 thả bom. Ảnh: Internet

Cách đây 39 năm, một trận quyết chiến chiến lược được diễn ra trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và một số vùng phụ cận, giữa một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng có ý chí kiên cường và quyết không khuất phục đế quốc Mỹ xâm lược, tên “sen đầm” quốc tế có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh bậc nhất thế giới. Sau 12 ngày đêm chiến đấu với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, dân tộc ta đã chiến thắng, các lực lượng phòng không, không quân của ta đã hạ gục sức mạnh của không lực Hoa Kỳ. Dư luận phương Tây thời đó ví trận thắng này là “trận Điện Biên Phủ trên không”. Mấy chục năm trôi qua, đã có nhiều tác phẩm, tổng kết của lãnh đạo, tướng lĩnh, nhà nghiên cứu lý luận quân sự… ở nhiều chế độ chính trị khác nhau viết về trận “Điện Biên Phủ trên không”. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đều khẳng định chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của sức mạnh chính trị tinh thần, của trí tuệ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, trong đó có nghệ thuật quân sự tài giỏi của một quân đội anh hùng.

Cho đến tháng 10-1972, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã diễn ra hơn nửa năm và giành thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện chiến trường. Trên miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại một bước quan trọng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ; không ngừng tăng cường sức người, sức của vào tiền tuyến lớn, cùng quân và dân miền Nam phát triển cuộc tiến công chiến lược. Tại Pa-ri, cuộc đàm phán giữa ta và Mỹ kéo dài đã bốn năm. Ngày 8-10-1972, Chính phủ ta đưa ra bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, ta và Mỹ đã thỏa thuận hầu hết các nội dung của bản dự thảo, ấn định ngày 22-10-1972 ký tắt tại Hà Nội và 31-10-1972 ký chính thức tại Pa-ri. Nhưng phía Mỹ cố tình dây dưa, muốn đợi qua cuộc bầu cử tổng thống, đồng thời chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới, nhằm giành thế mạnh cả về quân sự và ngoại giao, ép ta phải nhân nhượng theo những điều kiện có lợi cho Mỹ.

Phân tích âm mưu và hành động của địch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định, địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, có nhiều khả năng chúng sẽ dùng máy bay chiến lược B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng… Nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không – Không quân là tập trung mọi khả năng, nhằm đúng máy bay B52 mà tiêu diệt. Kế hoạch chuẩn bị đánh trả và phòng tránh máy bay B52 được quân và dân ta triển khai khẩn trương, tích cực, chủ động, kiên quyết, trong đó lực lượng nòng cốt là Quân chủng Phòng không – Không quân. Chúng ta đã huy động một lực lượng lớn tham gia chiến dịch gồm 6 trung đoàn tên lửa phòng không (loại tên lửa SAM 2), 3 trung đoàn không quân tiêm kích, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo cao xạ, 356 đơn vị pháo, súng máy cao xạ, toàn mạng ra-đa và các lực lượng phục vụ khác.

Ngày 17-12-1972, tổng thống Mỹ R.Ních-xơn ra lệnh mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 mang tên “Lai-nơ Bếch-cơ II” vào Hà Nội, Hải Phòng. Vào lúc 19 giờ 20 phút ngày 18-12, ra-đa của ta phát hiện máy bay B52 của địch bay vào vùng trời miền Bắc. Từ đó, liên tục 12 ngày đêm, Mỹ đã huy động đến mức cao nhất sức mạnh của không quân chiến lược thực hiện cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số trung tâm công nghiệp ở miền Bắc. Được chuẩn bị chu đáo từ trước, quân và dân ta bước vào cuộc chiến đấu với tinh thần bình tĩnh, tự tin và quyết thắng. Không quân ta đón đánh địch từ vòng ngoài. Bộ đội cao xạ và lưới lửa tầm thấp của dân quân tự vệ bắn “hất” máy bay chiến thuật của địch lên cao. Ra-đa, tên lửa vừa khắc phục các loại nhiễu, phát sóng bắt mục tiêu B52 và phóng đạn tiêu diệt. Cả bầu trời Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và nhiều vùng phụ cận khác được phủ kín lưới lửa phòng không ba thứ quân ở nhiều tầng, nhiều tầm, nhiều hướng.

Đúng 7 giờ ngày 30-12-1972, Chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị gặp đại biểu Chính phủ ta tại Pa-ri, bàn việc ký hiệp định. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn nhất bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng bị đánh bại. Trong 12 ngày đêm, địch đã xuất kích 663 lần máy bay chiến lược B52 và hơn 3.800 lần chiếc máy bay chiến thuật các loại.

Đây là lần đầu tiên quân và dân ta đã tổ chức, thực hành thắng lợi chiến dịch phòng không đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không của địch. Ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay chiến lược B52 và 5 máy bay F111, giáng đòn quyết định vào cố gắng cuối cùng của Mỹ trong năm 1972, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Về nghệ thuật chiến dịch, thành công nổi bật là ta đã đánh giá đúng âm mưu, ý đồ và dự đoán đúng quy luật đánh phá của không quân chiến lược Mỹ. Tổ chức, sử dụng hợp lý lực lượng phòng không ba thứ quân đánh các loại máy bay chiến lược, chiến thuật của địch cả ban ngày và ban đêm. Đặc biệt, tập trung lực lượng tên lửa phòng không đủ mạnh để đánh mục tiêu chủ yếu là B52, trong khu vực tác chiến chủ yếu là Hà Nội. Trong suốt thời gian chiến dịch, nghệ thuật hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng trong Quân chủng Phòng không – Không quân và giữa các lực lượng phòng không của ba thứ quân đã phát triển lên một trình độ cao, làm phong phú nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” rất to lớn, âm hưởng của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của một chiến dịch, góp phần quyết định “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề “đánh cho ngụy nhào” vào mùa xuân 1975. Thắng lợi đó đã kiểm nghiệm sự sáng tạo của một phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng, với nghệ thuật quân sự độc đáo, làm giảm hiệu lực hoặc vô hiệu hóa sở trường tác chiến của đối phương, đồng thời hậu thuẫn kịp thời, đắc lực cho mặt trận đấu tranh ngoại giao. Những bài học về nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức, thực hành chiến dịch phòng không vẫn giữ nguyên giá trị để các cấp, các ngành, các địa phương và lực lượng vũ trang tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Đại tá, TS TRẦN ĐĂNG THANH

qdnd.vn

Điển hình nghệ thuật đánh điểm, diệt viện

Tháng Chín 25, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND – Thực hiện kế hoạch tác chiến Xuân – Hè 1965, Bộ tư lệnh Quân khu 5 mở chiến dịch Ba Gia nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng của chủ lực địch, mở rộng vùng giải phóng, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của địa phương và giữ hành lang nối liền miền núi với đồng bằng Trung Trung Bộ.

Trong chiến dịch này, lực lượng của ta gồm: Trung đoàn bộ binh 1 chủ lực Quân khu 5, Tiểu đoàn bộ binh 45, các đại đội pháo binh, phòng không, trinh sát đặc công và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Ngãi. Địch có một trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn biệt động quân, một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, một tiểu đoàn và 15 đại đội bảo an, một chi đoàn xe thiết giáp.

Theo kế hoạch chiến dịch, đêm 28-5-1965, ta sử dụng Đại đội 2 (Tiểu đoàn 90, Trung đoàn 1) tập kích vào đại đội địch đóng quân dã ngoại ở Diễn Niên để kéo Tiểu đoàn 1 của địch trong đồn Ba Gia ra ứng viện, nhưng khi bộ đội ta tiếp cận thì địch đã cơ động về trú đêm ở núi Tròn. Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh tập kích vào 2 trung đội dân vệ ở chợ Phước Lộc để kéo đại đội địch từ núi Tròn về tiếp ứng, tạo điều kiện cho Đại đội 2, Tiểu đoàn 90 tiêu diệt. Đúng như dự đoán, khi trung đội dân vệ bị tiến công, ngày 29-5, đại đội địch ở núi Tròn lập tức đến ngay. Không để địch biết đã gặp bộ đội chủ lực, ta sử dụng một bộ phận đặc công, trinh sát vừa đánh vừa rút lui như kiểu du kích, làm cho địch bị mắc lừa, điều thêm 2 đại đội còn lại cùng toàn bộ ban chỉ huy tiểu đoàn (có 2 cố vấn Mỹ) ra khỏi đồn để “lùng bắt Việt Cộng”. Tiểu đoàn 90 xuất kích, tiếp cận và đồng loạt nổ súng xung phong tiêu diệt gần hết tiểu đoàn địch, hoàn thành thắng lợi trận then chốt chiến dịch.

Sau đó, địch tổ chức một chiến đoàn với 3 tiểu đoàn bao gồm bộ binh và thủy quân lục chiến chia làm hai cánh quân đi giải tỏa cho Ba Gia. So sánh tương quan lực lượng, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương kiên quyết lập thế trận chia cắt, tách quân địch ra từng tiểu đoàn, không cho chúng liên kết, chi viện lẫn nhau để tiêu diệt từng bộ phận. Bằng các trận đánh liên tiếp, đến cuối ngày 30-5, ta đã “gom” được địch vào mấy cụm cách biệt nhau và buộc địch phải trú quân ban đêm, không kịp xây dựng trận địa. Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị chỉ để lại một bộ phận nhỏ đủ sức vây và kiềm chế địch, còn đại bộ phận củng cố lực lượng chuẩn bị tập kích, quyết tâm tiêu diệt chiến đoàn địch trong đêm. Đến 4 giờ ngày 31-5, ta tiêu diệt hoàn toàn chiến đoàn địch.

Chiến dịch Ba Gia là một trong những chiến dịch đạt hiệu suất chiến đấu cao. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với lực lượng ít hơn địch cả về số tiểu đoàn và vũ khí trang bị, song ta đã tiêu diệt gọn 4 tiểu đoàn chủ lực khá tinh nhuệ của địch. Thành công của chiến dịch thể hiện bước trưởng thành mọi mặt của bộ đội chủ lực miền Nam, trong đó nổi bật về nghệ thuật vận dụng cách “đánh điểm, diệt viện”.

Việc lựa chọn mục tiêu làm “điểm khêu ngòi” đã thể hiện tính dây chuyền trong kế hoạch tác chiến chiến dịch. Ta không lựa chọn “điểm đồn” Ba Gia để “khêu ngòi” mở màn chiến dịch, mà lựa chọn đại đội địch đóng quân dã ngoại. Khi tình hình địch thay đổi, ta chọn “điểm” là chốt bảo an dân vệ ở chợ Phước Lộc, tuy là “điểm” nhỏ, nhưng “nhạy cảm”, đánh vào đó, ta đã dụ được đại đội địch ở núi Tròn quay về ứng cứu. Bộ tư lệnh chiến dịch lại chọn ngay đại đội này làm mục tiêu “khêu ngòi” để tiếp tục lừa dụ Tiểu đoàn 1 cơ động ra khỏi đồn Ba Gia; ta tổ chức đánh viện lớn để câu nhử và diệt viện lớn hơn của địch là chiến đoàn ngụy đi giải tỏa cho Ba Gia.

Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch cũng là một bước phát triển sáng tạo trong chiến dịch. Lực lượng chiến dịch được tổ chức thành các bộ phận, lần lượt thực hiện thắng lợi từng trận đánh. Trận đánh “khêu ngòi”, ta sử dụng trung đội địa phương Sơn Tịnh là đơn vị hoạt động quen thuộc trên địa bàn; khi đại đội địch về tiếp ứng, ta không tập trung lực lượng diệt đại đội này mà chỉ sử dụng một bộ phận trinh sát, đặc công ngăn chặn, vừa đánh vừa rút lui để kích thích, câu nhử địch. Trận then chốt tiêu diệt Tiểu đoàn 1 của địch khi cơ động ra khỏi đồn Ba Gia, Tiểu đoàn 90 nổ súng xung phong vào lúc địch chủ quan, nên hoàn toàn bị bất ngờ; đồng thời, bộ phận hỏa lực trợ chiến của trung đoàn kiềm chế trận địa pháo địch trong đồn Ba Gia, không để chúng chi viện cho lực lượng đang bị tiến công. Sau thắng lợi của trận then chốt mở màn, ta chủ động điều chỉnh, chuẩn bị lực lượng đánh trận then chốt tiếp theo. Trong thực hành tác chiến, ta kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của bộ đội chủ lực với hoạt động tác chiến phối hợp của lực lượng vũ trang địa phương và đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân.

Phân tích nắm chắc quy luật hành động của địch, từng bước điều động, buộc địch phải bị động đối phó theo cách đánh của ta cũng là một thành công nổi bật của nghệ thuật chiến dịch. Bộ tư lệnh chiến dịch đã dự kiến chính xác hành động của địch; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu để giành thắng lợi. Trong thực hành tác chiến, khi yếu tố bất ngờ của phục kích không còn, ta đã linh hoạt chuyển sang vận động tiến công tiêu diệt địch; chuyển hóa từ vận động tiến công ban ngày sang bao vây, kiềm chế và tập kích địch ban đêm; vận dụng linh hoạt thủ đoạn ngăn chặn, bao vây, chia cắt để lần lượt tiêu diệt từng bộ phận quân địch. Sự sáng tạo vận dụng linh hoạt nghệ thuật tác chiến trong chiến dịch Ba Gia là kinh nghiệm quý, cần được nghiên cứu để tiếp tục tổ chức huấn luyện cho bộ đội, phục vụ tác chiến trong điều kiện mới hiện nay.

Đại tá Hoàng Văn Quý

qdnd.vn

Giải mã những bí ẩn của chiến tranh không quân Việt Nam

Tháng Chín 5, 2011 Bình luận đã bị tắt

Một trong những bí ẩn của cuộc chiến tranh cục bộ tại Việt Nam là cuộc đối đầu giữa hai lực lượng, một lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới và một lực lượng không quân sinh ra trong khói lửa chiến tranh. Không nói về những khía cạnh chính trị, bài viết cố giải mã những bí ẩn của cuộc chiến tranh có quá nhiều bí ẩn. Ngay cả với những người trực tiếp cầm cần lái và nhấn nút phóng tên lửa.

Bài viết của chuyên gia quân sự độc lập A.I.Trernhusev (А.И.Чернышев)

Ngày 2 tháng 8 năm 1964. Trên vịnh Bắc bộ xảy ra một sự kiện mở màn cho một cuộc chiến tranh khốc liệt. Theo lời phát ngôn của Nhà trắng Mỹ, các xuồng phóng lôi của Hải quân nhân dân Việt Nam đã tấn công 2 tầu khu trục Mỹ là tầu khu trục Maddox và Joy Turner ở ngoài vùng nước tự do hàng hải (Sự kiện nguỵ tạo của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964). Có thể hiểu rõ ràng rằng, sử dụng lực lượng bộ binh để đáp trả là không thể, vì trong trường hợp tốt nhất sẽ xảy ra chiến tranh dạng “Triều Tiên lần II” với hàng triệu chí nguyện quân Trung Quốc, trường hợp xấu hơn sẽ là cuộc đối đầu trực tiếp với quân đội Liên bang Xô Viết.

Từ suy luận đó, Lầu năm góc quyết định chọn phương án: Sử dụng lực lượng không quân hùng mạnh của Mỹ tiêu diệt tiềm lực quân sự và chính trị của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc không tập ngày 5 tháng  8 năm 1964 vào căn cứ của các xuồng phóng lôi ở Vinh bắt đầu cho Cuộc chiến tranh đường không lần đầu tiên trong lịch sử vào miền Bắc Việt Nam.

F-4B Phantom IF-4B Phantom I

Do không đủ lực lượng và phương tiện chiến tranh được triển khai trong khu vực, trên lãnh thổ của Miền Bắc Việt Nam chỉ có một số lần tập kích. Nhưng người Mỹ đã xây dựng hàng chục căn cứ không quân ở Miền Nam Việt Nam và ở Thái Lan, các căn cứ này chứa khoảng 330 máy bay tác chiến chiến thuật. Bao gồm máy bay tiêm –  cường kích F-105. Thunderchief, máy bay F-100 Super Sabre, máy bay tiêm kích đánh chặn F-4C Phantom II.

Để trinh sát, không quân Mỹ sử dụng máy bay RF-101 Voodoo và RF-4C Phantom P. Để bảo vệ sân bay, người Mỹ sử dụng 2 tiểu đoàn máy bay đánh chặn F-102 Delta Dagger, được gọi là loại máy bay vô tích sự nhất trong chiến trường Đông Dương. Ở Vịnh Bắc bộ, người Mỹ thành lập 2 cụm tầu sân bay và tầu chiến, Cụm tầu sân bay Yankee Station sử dụng hơn 200 máy bay cường kích và tiêm kích ở khu vực bờ biển Miền Bắc, Cụm tầu sân bay Dixy Station khu vực bờ biển phía Nam. Các loại máy bay trên boong tầu chủ yếu là F-4B Phantom I, F-8 Crusaider, cường kích А-4 Skyhawk, A-1 Skyraider.

Trong giai đoạn đó, trong lực lượng phòng không, không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có 40 đến 60 máy bay chiến đấu. 25 máy bay tiêm kích J-5В (MIG17 bản copy của Trung Quốc) một số không đáng kể máy bay J-2 (MIG15) bản copy của Trung Quốc, và một số máy bay ném bom IL 28.

Để bảo vệ các mục tiêu quan trọng của các cơ quan điều hành, lãnh đạo cấp nhà nước và các mục tiêu quan trọng, lực lượng PKKQ có trong biên chế một số phân đội pháo phòng không cấp tiểu đoàn, người Mỹ dự đoán là khoảng 1000 khẩu súng cỡ nòng các loại.

Tháng 2 đến tháng 6 năm 1965

Ngày 7 tháng 2 năm 1965, Không quân Mỹ thực hiện chiến dịch Flaming Dart (Mũi lao lửa), chiến dịch không tập đầu tiên trong hàng loạt chiến dịch nhằm tiêu diệt các căn cứ quân sự và kinh tế trên Miền Bắc Việt Nam.

Trong giai đoạn này, các máy bay chiến đấu của Mỹ tiến hành các trận ném bom phá hủy dồn dập, sử dụng các chiến thuật tương đối đơn giản. Máy bay cường kích, nhiều khi đạt số lượng đến 80 chiếc, thực hiện chuyến bay đến mục tiêu, lựa chọn độ cao có lợi nhất (khoảng từ 2500 – 4000m), sử dụng kỹ thuật đơn giản ném bom và phóng tên lửa.

 Các kỹ thuật ném bom của không quân Mỹ trong 3 giai đoạn chiến tranh, trước và sau khi Việt Nam sử dụng không quân.Các kỹ thuật ném bom của không quân Mỹ trong 3 giai đoạn chiến tranh,
trước và sau khi Việt Nam sử dụng không quân.

Số lượng đầu đạn đánh trúng mục tiêu rất thấp, do tâm lý là ném hết bom, phóng hết đạn nhiều hơn đánh trúng mục tiêu. Để tránh phải rơi vào lưới lửa phòng không của các hệ thống pháo phòng không đa cỡ nòng dày đặc, kíp lái hầu hết không hạ thấp độ cao vào vùng nguy hiểm.

Phương thức bảo vệ mục tiêu của không quân Việt Nam khá cổ điển: đánh chặn ở khoảng cách trên đường máy bay đối phương bay đến mục tiêu cần bảo vệ.

Các phi công Việt Nam lái MiG-17 đã thực hiện một chiến thuật rất hiệu quả: 

Bay ở độ cao thấp và gần với mục tiêu cần bảo vệ, ngụy trang bằng địa hình trên mặt đất, MiG 17 đợi đội hình máy bay cường kích ném bom của không quân Mỹ. Khi phát hiện mục tiêu, cặp đôi MiG 17 bay ra khỏi ổ phục kích, sử dụng ưu thế hơn một chút về tốc độ ở độ cao thấp (200/300 km/h với độ cao 3000m), cơ động trong đội hình những máy bay cường kích ném bom đang mang nặng vũ khí treo dưới cánh và đánh cận chiến, bắn thẳng vào đối phương ở khoảng cách gần.

Sử dụng chiến thuật này ngày 4/4/1965, bốn chiếc máy bay MiG -17 chống lại 8 chiếc F-105D gần vùng trời Thanh Hóa, đại úy phi công Trần Hanh bay số 1 với phi công bay số 2 đã bắn hạ 2 chiếc F105D Thần Sấm do đại úy phi công James Megnesson và  thiếu tá Frank Bennet điều khiển. Đây là 2 chiếc đầu tiên trong số 350 máy bay Mỹ bị không quân Việt Nam bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.

Sau 5 ngày không quân Mỹ dành được một chiến thắng với cái giá khá đắt: 9 tháng 4 năm 1965, lúc 8h40 phút máy bay F-4B Phantom II số hiệu 151403, kíp lái Trung úy T. Murphy và Robert Fagan từ phi đoàn bay tiêm kích số VF-96 từ tầu sân bay USS Ranger CV-61, tham chiến cùng với 4 chiếc máy bay MiG 17. Tên lửa không đối không tầm trung AIM-7 Sparrow bắn trúng 1 máy bay MiG 17.

Bản thân chiếc F 4 Phantom II rơi vào hỏa lực súng máy của Mig bốc cháy và rơi xuống biển, kíp lái mất tích.

Ngày 3 tháng 5 năm 1965, Trung úy phi công Phạm Ngọc Lan trên Mig 17F bắn cháy 1 chiếc A-4 Skyhawk. Ngày 20 tháng 6 năm 1965 vào lúc 18 giờ 25 phút 2 Mig 17F tấn công 4 chiếc máy bay cường kích hải quân А-1Н Skyraider động cơ pittong cánh quạt của không đoàn cường kích VA-25 cất cánh từ tầu sân bay Midway. Một chiếc MiG 17 khi cơ động không thành công đã rơi vào hỏa lực của súng 20 mm của 2 chiếc A-1H (Phi công C. Hartman và K. Johnson).

Trong toàn bộ giai đoạn đầu tính từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1965, theo thông số của Mỹ, Không quân Việt Nam mất 4 chiếc MiG- 17 (hoàn toàn do Hải quân, 3 trong số đó bị bắn rơi bởi F-4B) Mỹ mất 5 máy bay F-105D, 2 máy bay cường kích và 1 F-4.

Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965

Nhờ sự viện trợ tích cực ngày một tăng cường của Liên bang Xô Viết và Trung Quốc, hệ thống phòng không của Miền Bắc Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tháng 7 năm 1965, một hệ thống vũ khí mới xuất hiện, làm thay đổi hoàn toàn tình hình chiến trường, hệ thống tên lửa phòng không S-75.

Ngày 24 tháng 7 năm 1965, tiểu đoàn tên lửa có sự tham gia của cố vấn quân sự Thiếu tá F.Ilinux và cố vấn kíp trắc thủ Việt Nam Thượng úy V. Konstantinov,  phóng đạn tiêu diệt 3 máy bay tiêm kích – ném bom F-4C cách Hà Nội 30 – 40 km về phía Đông Nam.

Máy bay bay với tải trọng vũ khí đầy đủ dưới cánh trong đội hình hành tiến. Người Mỹ công nhận bị rơi 1 chiếc F-4, hai chiếc bị thương nặng. Sau 3 ngày, 6 chiếc F-105 liên tục ném bom vào khẩu đội tên lửa, tổn thất tác giả bài viết không có thông số.

 Chiến thuật tấn công của MiG 17 phục kích.Chiến thuật tấn công của MiG 17 phục kích.

Đến ngày 27 tháng 10, không quân Mỹ đã đánh trúng 8 khẩu đội tên lửa S-75 của bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam. Đồng thời không lực Mỹ cũng tổn thất (theo thông số Mỹ cung cấp) là 3 F-105 Thunderchief, 2 F-8 Crusaider, 2 F-4 Phantom II và 1 А-4 Skyhawk. Rất nhiều máy bay khác bị thương tổn nặng nề. Theo thông số do Việt Nam cung cấp, trong giai đoạn này bộ đội tên lửa đã bắn rơi hơn 30 máy bay tiêm kích-ném bom.

Trong những trận đánh khốc liệt, lực lượng cố vấn quân sự Liên Xô cũng hy sinh và bị thương rất nhiều, quá trình vừa chiến đấu vừa học tập, huấn luyện, các trắc thủ Việt nam đã nhanh chóng nắm chắc tính năng kỹ chiến thuật và  đã thành công trong điều khiển tên lửa. Trong suốt cả giai đoạn chiến tranh phòng không, các cố vấn quân sự Xô viết luôn sát cánh cùng các cán bộ chiến sỹ lực lượng phòng không – không quân Việt Nam.

Sự tổn thất tăng vọt của các loại máy bay chiến đấu đồng thời trạng thái tâm lý năng nề bao phủ lên lực lượng không quân Mỹ do lưới lửa phòng không dày đặc và sự tham chiến hiệu quả của tên lửa S-75 đã buộc Nhà trắng và Lầu năm góc phải có giải pháp hạn chế. Đồng thời lực lượng không quân Mỹ cũng phải thay đổi chiến thuật tấn công an toàn.

Phi công Mỹ không áp dụng chiến thuật tấn công tầm cao trung bình mà buộc phải thay đổi do tên lửa S-75 tiêu diệt tất cả các máy bay bay ở tầm trung và tầm cao. Máy bay Mỹ buộc phải chọn khả năng đột kích ở tầm thấp và tầm thấp giới hạn.

Các phi công Mỹ đã cố gắng sử dụng sự che khuất của các dãy núi trên địa hình, do đó khả năng phát hiện mục tiêu và bám dính mục tiêu của radar gặp nhiều khó khăn. Sự thay đổi chiến thuật đó đã lập tức ảnh hưởng đến chiến trường không quân.

Các phi công tiêm kích Việt Nam không nhận được những thông tin chính xác, đầy đủ của các phi đoàn máy bay đối phương bay luồn theo sườn núi và sát mặt nước biển. Các ổ phục kích của MiG- 17 trở lên khó khăn hơn, hiệu quả chiến đấu giảm sút trong các cuộc tấn công theo các mục tiêu máy bay Mỹ tự do cơ động.

Chiến thuật tấn công của MiG 17Chiến thuật tấn công của MiG 17

Nhưng cùng trong thời gian đó, các cuộc không kích của máy bay Mỹ vấp phải hỏa lực dữ dội của pháo phòng không các cỡ nòng và thậm chí súng bắn thẳng như 12,7mm và súng trường.

Đến cuối năm 1965, số lượng pháo phòng không các cỡ nòng của Miền Bắc Việt Nam tăng lên nhanh chóng và vượt con số 2000. Đặc biệt là hỏa lực của pháo phòng không xô viết 57 mm sử dụng radar đường đạn S-60. Hỏa lực pháo 57 có radar dẫn bắn đã phát huy sức mạnh dữ dội của nó khi bảo vệ các mục tiêu trọng yếu như cầu, đường giao thông.

Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, các chuyên gia quân sự Mỹ nhận ra rằng một nửa số máy bay bị bắn hạ ở Việt nam là do hỏa lực của súng phòng không các cỡ nòng nhỏ như 57mm, 37mm, 14,5mm, 12,7mm và thậm chí súng trường, những loại vũ khí được coi là đã hết khả năng sử dụng trong chiến tranh hiện đại.

Đồng thời, chiến thuật (tầm bay thấp) đã làm giảm đáng kể hiệu quả của các đòn tấn công đường không, do số lượng máy bay trong các phi đội quá nhỏ và đòi hỏi trình độ bay của phi công rất cao.

Tính đến những tổn thất nặng nề của không quân, khi cố gắng tiêu diệt các đơn vị tên lửa, bộ Tổng tham mưu quân đội Mỹ đã ra quyết định áp dụng loại máy bay tác chiến điện tử- máy bay được trang bị thiết bị đặc biệt của không đoàn Wild Weasel . Nhưng máy bay này, thời điểm đầu tiên là F-100F, sau đó là F-105F, đến gần cuối năm 1972 – F-4C và F-105G.

Những máy bay này được trang bị thiết bị phát hiện và chế áp điện tử, sóng của đài phát radar tên lửa, đồng thời sử dụng tên lửa tự dẫn bám theo sóng radar AGM-45 Shrike, sau này hoàn thiện hơn là AGM-78 Standard-ARM giành được quyền chủ động trên không vào ngày 20 tháng 12 năm 1965.

Tính đến ngày 11 tháng 7 năm 1966 bảy máy bay F-100F Wild Weasel đã đánh trúng 9 khẩu đội tên lửa, chỉ có một chiếc bị bắn rơi, 2 chiếc khác đâm vào nhau khi tránh hỏa lực phòng không.

Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1966

Bắt đầu năm 1966 đánh dấu một giai đoạn mới của không quân cả hai bên, ở giai đoạn này, không quân Mỹ sử dụng các phương thức tác chiến kỹ thuật mới và đồng thời không quân và không quân Hải quân Mỹ xuất hiện nhiều loại máy bay tiêm kích mới.

Nhờ có các thiết bị phát hiện, gây nhiễu và chế áp điện tử, không quân Mỹ đã quản lý được  tầm bay thấp và có thể tổ chức được các phi đoàn máy bay với số lượng lớn, chọc thủng tuyến phòng không và tấn công ồ ạt các mục tiêu ở tầm trung trong khoảng cách gần mục tiêu.

Cùng với việc nhân được các máy bay MiG-17 từ Liên bang Xô Viết và Trung quốc, từ năm 1966, không quân Việt Nam sử dụng một số máy bay MiG- 17 cải tiến, dù không được phát triển rộng rãi.

Đó là các máy bay MiG-17PF (J-5A) với radar “Emerald” và 3 khẩu pháo HP-23 mm. Theo đơn đặt hàng của Việt Nam, Tiệp Khắc cũng chế tạo mẫu máy bay MiG- 15, trang bị hai khẩu 23mm và tên lửa R-3S ở vị trí của pháo 37mm lắp thiết bị dò tìm hồng ngoại. Sau này, vào năm 1968, Không quân Việt Nam sử dụng MiG 17F với pháo tiêu chuẩn và hai tên lửa tự dẫn R-3S.

Sơ đồ tấn công của máy bay Mỹ và đánh chặn của MiG 17Sơ đồ tấn công của máy bay Mỹ và đánh chặn của MiG 17

Sau này, theo các nguồn thông tin không chính thức, tháng 2 năm 1966, không quân Việt Nam tiếp nhận máy bay siêu âm F-6 (MiG -19) sản xuất tại Trung Quốc, có tốc độ cao và trang bị vũ khí mạnh hơn MiG-17. Nhưng không được sử dụng rộng rãi, các hoạt động tích cực của F-6 chỉ bắt đầu vào mùa thu năm 1972 khi chiến tranh trên không đã chấm dứt.

Cú shock thật sự của người Mỹ chỉ bắt đầu khi máy bay MiG- 21 thực sự tham chiến. Từ những năm 1965, Liên bang Xô viết có đề nghị Trung Quốc cho phép triển khai các trung đoàn MiG- 21 ở địa phận Trung Quốc để bảo vệ bầu trời Hà Nội và Hải phòng nhưng bị từ chối.

Máy bay MiG 21 trực tiếp tham gia vào ngày 23 tháng không có kết quả. Ngày 26 tháng 4, không quân Mỹ bắn hạ 1 chiếc MiG 21 đầu tiên. Không quân Việt Nam sử dụng chủ yếu MiG-21PF-V (mẫu số 76-MiG-21PR đã được nhiệt đới hóa, các thiết bị được mạ lớp vật liệu chống rỉ, sau này là MiG-21PFM (Mẫu 94 với ghế phi công kiểu KM-1), trong biên chế của không quân Việt Nam còn có mẫu MiG-21 F-13 ( Mẫu 74 do Tiệp Khắc sản xuất).

Các sơ đồ chiến thuật của MiG 21 khi không chiến với máy bay F-4 Phantom IICác sơ đồ chiến thuật của MiG 21 khi không chiến với máy bay F-4 Phantom II

Đối thủ quan trọng lúc này của F-4 Phantom II là máy bay siêu âm MiG 21F-13(МиГ-21Ф-13) một phần do Tiệp Khắc sản xuất và MiG 21PF đã được nhiệt đới hóa. Sử dụng radar bám mục tiêu tương tự như máy bay F-4, MiG 21 sử dụng tên lửa có điều khiển và tự dẫn hồng ngoại R-3S hoặc sử dụng các ống phóng rocket không điều khiển S-5.

Bộ tư lệnh không quân và hải quân Mỹ vẫn đặt toàn bộ hy vọng vào máy bay chiến thuật F-4 hiện đại, có vũ khí mạnh, radar điều khiển mạnh, có tốc độ cao và khả năng tăng tốc nhanh cùng với những kỹ chiến thuật chống MiG thành thạo. Về lý thuyết chiến trường, F-4 mạnh hơn MiG-21 nhiều lần.

Nhưng từ khi đối đầu với MiG 21 F-4 mất dần những ưu thế tuyệt đối của nó và bắt đầu chịu các tổn thất nặng nề. từ tháng năm đến tháng 12 năm 1966, lực lượng không quân Mỹ trong các trận đánh trên không đã mất 47 máy bay, phía không quân Việt Nam tổn thất 12 máy bay.

Thông số cơ bản xác định tính cơ động của máy bay tiêm kích là tốc độ bẻ góc, trong đó 85% sự tăng tốc là giảm tải trọng riêng trên cánh, và chỉ có 15% được sử dụng để lấy góc nghiêng. Cơ động là nền tảng của phòng thủ, và phòng thủ tốt là đảm bảo tốt hệ số sống còn trong các trận không chiến.

Tải trọng riêng trên cánh của MiG 21 là 340kg/cm2, còn tải trọng của F-4 là 490kg/cm2. do đó khả năng sống còn của MiG 21 là 0,93 còn của F-4 là 0,83.

Khối lượng tải trọng trên cánh máy bay với tốc độ vòng chậm của máy bay tiêm kích Mỹ, khả năng chịu tải của Phantom so với MiG (6,0 chống lại 8,0 của MiG-21PF) và các góc tấn công của MiG, máy bay F-4 bị bỏ qua. Các chuyên gia không quân Mỹ thừa nhận khả năng bay xoắn lò xo của máy bay Mỹ kém hơn hẳn so với MiG.

Đồng thời, khả năng bay thẳng đúng chiếm độ cao của F-4 cũng kém hơn MiG ( của F-4 là 0,74, của MiG là 0,79).  Đồng thời, độ tin cậy bay xoắ ốc của F-4 kém hơn MiG. Khi F-4 đã rơi vào vòng xoắn trôn ốc trên mặt phẳng ngang, các phi công có trình độ trung bình sẽ không thể thoát khỏi.

Theo thông báo của chính bên Mỹ, chỉ riêng năm 1971 do rơi vào vòng xoắn trôn ốc trong các cuộc truy đuổi, Mỹ mất đến 79 Phantom II. Radar của F-4 có khả năng phát hiện mục tiêu rất xa và bám dính, nhưng khả năng chống nhiễu rất kém.

Buồng lái của phi công và hoa tiêu được lắp dầy đặc các bảng điều khiển và nút bấm, công tắc, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của phi công và hoa tiêu. Nhưng F-4 cũng có những điểm nổi trội hơn so với MiG – 21.

Khả năng tăng tốc của F-4 cao hơn, từ tốc độ 600 km/h – 1000 km/h mất 20 s, còn MiG 21 mất 27s. tốc độ cất cánh cao hơn, khả năng nhìn quanh của phi công tốt hơn, sự có mặt của hoa tiêu khi theo dõi bầu trời cũng làm chủ được tình thế, nhanh chóng báo cho phi công biết mối đe dọa từ phía sau.

Đồng thời, lượng vũ khí trên MiG- 21 kém hơn rất nhiều lần so với F-4. Với những máy bay MiG 21 thế hệ đầu tiên, lượng vũ khí ít cộng với radar công suất thấp, không có khả năng chống nhiễu cũng là điểm yếu rất lớn của MiG 21.

Những trận không chiến cho thấy, do nhỏ hơn F-4 về tải trong riêng trên cánh, do đó MiG có khả năng cơ động tốt hơn trên mặt phẳng ngang, đặc biệt trên tầm cao và tầm trung. Các phi công Việt Nam rất dũng cảm lao vào các trận cận chiến. Nhưng máy bay MiG 21 chỉ có 2 tên lửa R-3S, chịu tải trọng rất nhỏ khi phóng ( 1,4 đơn vị) .

Lớn hơn tên lửa không rời khỏi bệ phóng, bộ phận tách tên lửa sẽ khóa an toàn. Chính vì vậy, trong trường hợp cơ động săn đuổi và thoát hiểm, việc phóng R-3S rất khó. Không có súng máy phòng không cũng là điểm rất yếu của MiG 21, sau khi phóng 2 quả tên lửa máy bay MiG không còn vũ khí, và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến MiG bị tổn thất nhiều.

Trong giai đoạn này, MiG 21 ở Liên Xô có phương án cho MiG 21PF/PFM thêm ổ súng treo GP-9 với pháo GS-23 mm. Súng đại bác GP-9 đã được lắp cho máy bay MiG 21 trong cuộc chiến tranh xung đột Ấn Độ với Pakistan năm 1971. Đồng thời cũng vào thời gian này, súng 23 mm G9 mới được trang bị cho MiG -21 PFM

Với vấn đề này, sau khi Phantom F-4B/D/J khi va chạm với MiG 17 vốn không có súng, đã vội vã trang bị cho máy bay các ổ súng máy treo. Giai đoạn cuối MiG 21 cũng được trang bị thêm súng máy ở cánh, loại máy bay MiG -21M. Đồng thời, MiG có radar tương đối yếu, do đó phụ thuộc nhiều vào các trạm điều khiển mặt đất. Nhưng đồng thời không có radar hạng nặng cũng làm cho máy bay cơ động hơn nhiều.

Vào những năm 1965, trên căn cứ không quân Đà Nẵng để đối phó với MiG 21 đã chuẩn bị một không đoàn máy bay tiêm kích nổi tiếng F-104 S Starfighter. Nhưng chưa kịp xuất kích, phi đoàn này đã cho thấy khả năng không hiệu quả của máy bay và chỉ dùng để tấn công mục tiêu mặt đất, cũng chỉ ở Miền Nam.

Trong 4 tháng đầu tiên của năm 1966, các trận không chiến có 11 máy bay của Mỹ bị rơi, không quân Việt Nam tổn thất 9 máy bay MiG. Tỷ lệ là 1,2:1 ( người Mỹ công nhận là có 6 chiếc) nhưng từ khi đưa MiG 21 vào trận, tỷ lệ tổn thất biến đổi hẳn. Từ tháng 5 đến tháng 12 người Mỹ mất đến 47 chiếc máy bay, trong đó Việt Nam mất 12 chiếc MiG, tỷ lệ đã là 4:1.

Nhận thấy những điểm yếu của MiG 21, các phi công Việt Nam đã áp dụng chiến thuật tấn công tên lửa liên tục, đặc biệt hiệu quả khi đối phương có số lượng đông. Lượng vũ khí tên lửa có trên các đời máy bay sau này (MiG 29, Sukhoi) và những tính năng cơ động đã áp dụng chiến thuật này.

Các máy bay MiG 21 từ ổ phục kích sử dụng tốc độ cao tiếp cận mục tiêu, phóng tên lửa tự dẫn hồng ngoại hoặc bán chủ động dẫn đường radar đuổi theo nhằm vào nguồn nhiệt (lửa) phụt ra từ đuôi máy bay. MiG – 21 phóng tên lửa có điều khiển khi bám đuôi với vận tốc lên đến 1,2 M, sau đó máy bay với vận tốc cao như vậy lướt qua đội hình của đối phương và bẻ cần lái rẽ thoát khỏi trận đánh. Chiến thuật này thông thường phá nát đội hình hành tiến của đối phương buộc các máy bay địch phải cơ động làm mồi cận chiến cho máy bay MiG 17.

Chiến thuật này cũng đòi hỏi trình độ lái vô cùng điêu luyện của phi công chiến đấu, có trình độ điều khiển cao, đồng thời trạm radar dẫn đường cũng phải rất thông minh quyết đoán trong tấn công, đảm bảo tính bất ngờ và khả năng khó bán đuổi của đối phương. Lực lượng không quân Việt Nam thường sử dụng chiến thuật đa tiêm kích, phối hợp giữa MiG 17, 19 và 21.

MiG 17 có tốc độ dưới âm, tấn công buộc máy bay cường kích ném bom phải bay lên phía trên, ở đó MiG 21 đã chờ sẵn, thả thùng dầu phụ và đột ngột cơ động tấn công bằng tên lửa. cũng có những trường hợp máy bay MiG 17 đóng vai trò mồi nhử, F-4 khi tấn công MiG 17 đã tự đưa mình vào tầm tấn công của tên lửa MiG 21.

Về lý thuyết, chiến thuật này không mới, nhưng trên địa hình Việt Nam, với 3 tầng lưới lửa phòng không và số lượng máy bay Mỹ tham chiến thông thường gấp 6 lần hoặc hơn nữa thì đó là một vấn đề quá khó khăn đối với các phi công tiêm kích của Mỹ.

Từ tháng 1 năm 1967 đến tháng 3 năm 1968

Tổn thất ngày một tăng của không quân khiến Mỹ phải có giải pháp khẩn cấp. Phi công tiêm kích, nếu có sỗ giờ bay nhỏ 1500 – 2000 giờ bay, buộc phải quay về các căn cứ đặc biệt để tái huấn luyện.

Chương trình huấn luyện dày đặc và nặng nề có bao gồm cả những chiến thuật cận chiến và cơ động nhanh vốn đã bỏ quên từ lâu nay được khởi động lại với những máy bay mẫu có tốc độ tương đương, đồng thời được áp dụng thêm khả năng tránh và chống lại tên lửa và súng phòng không mọi cỡ nòng. Huấn luyện lại các chiến thuật cơ động tự do, tác chiến cơ động trong đội hình phi đội.

Sau các đợt tập huấn, trình độ bay của phi công cao hơn hẳn, và cũng đã có những kết quả khả quan trong không chiến, nhưng với sức mạnh dữ dội của hỏa lực phòng không, đồng thời các phi công Việt Nam cũng tìm ra cách đánh hiệu quả hơn, theo đề xuất của các chuyên gia quân sự Xô Viêt, các phi đội MiG đánh chặn đối phương trên đường bay hành trình vào mục tiêu, khi máy bay mang nặng vũ khí, tấn công và thoát ly chiến trường, buộc máy bay Mỹ phải ném bom sớm và hạ thấp độ cao, dành trận địa cho tên lửa và pháo phòng không các cỡ nòng.

Không quân Mỹ chuyển sang đánh phá các sân bay quân sự của Việt Nam. Nhằm chặn khả năng xuất kích của máy bay MiG, mục tiêu chủ yếu là đường băng và các khu vực kho tàng quân sự.

Mặc dù không quân Mỹ đã rất cố gắng, nhưng tổn thất trên bầu trời Việt Nam tiếp tục tăng. Nếu tuần cuối cùng của tháng 7, 11 máy bay bị bắn hạ, thì tuần đầu tiên của tháng 8 là 13, và sau đó con số 2 máy bay bị bắn rơi một ngày đã trở thành chuyện bình thường trong truyền thông.

Theo những thông số của Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không không quân Việt Nam, năm 1967 trong các trận không chiến đã hạ 124 máy bay Mỹ và tổn thất 60 máy bay MiG, theo công báo của không lực Mỹ phía Việt Nam tổn thất 76 máy bay, không quân Mỹ hạ 59, số còn lại do không quân Hải quân Mỹ bắn hạ.

Như vậy, tỷ lệ tổn thất 2:1 được lập ra trong thời kỳ đầu của chiến tranh, lại được thiết lập lại, điều đó khẳng định sự thay đổi thường xuyên về chiến thuật của cả hai bên tham chiến. Với mỗi một phương thức tác chiến mới của không quân Mỹ, lực lượng PKKQ Việt Nam lại nhanh chóng tìm ra giải pháp nhằm khống chế ưu thế trên không của đối phương.

Tháng 6 năm 1971, người Mỹ lại ném bom miền Bắc lần thứ II

Ngày 16 tháng 4 hai chiếc MiG 21MF (đã cải tiến, có thêm pháo GS 23mm) tham chiến cùng với 12 Phantom II, 2 máy bay MiG bị bắn rơi.

Ngày 27 tháng 3 Phi đoàn F4 gặp phi đội 2 chiếc MiG 21 và không chiến, F4 bị bắn hạ một chiếc.

Ngày 6 tháng 5, phi đội F-4 tập kích phi đội MiG 21 đang chuẩn bị tấn công máy bay cường kích A-7. một chiếc MiG 21 bị trúng tên lửa. Cũng trong ngày hôm đó, một phi đoàn F-4 không chiến với phi đội 4 chiếc MiG 21. Một chiếc MiG 21 bị tấn công bởi 6 quả tên lửa, nhưng phi công tránh thoát, sau đó anh quay lại tham chiến và bị tấn công thêm 3 quả tên lửa, máy bay bị thương nặng, nhưng phi công nhẩy dù được.

Ngày 8 tháng 5 Không quân Mỹ bắt đầu chiến dịch Linebacker I, kéo dài đến 23 tháng 10. Trận đánh lớn nhất của không quân Việt Nam là ngày 10 tháng 5 khi không quân Việt Nam thực hiện 64 lần xuất kích, triển khai 15 trận đánh và bắn rơi 7 máy bay F-4. Ngược lại, không quân Việt Nam cũng mất 2 MiG-21, 2 MiG-17 và 1 J-6.

Trong một trận không chiến vào 10 tháng 5 Phi đoàn MiG 17 xuất kích để giải tỏa một sân bay quân sự đang bị không kích. MiG 17 bí mật bay với độ cao thấp, ẩn nấp theo địa hình tiếp cận đối phương và ngay trong lần cận chiến đầu tiên bắn hạ 1 máy bay F-4. Phi đội 2 MiG-17 quần chiến với 4 máy bay F-4 và bị bắn hạ một chiếc.

Nhưng khi F-4 và MiG 17 lăn xả vào vòng xoáy truy đuổi nhau thì từ sân bay đang bị phong tỏa xuất kích 2 MiG 21, nhanh chóng chiếm độ cao, ở khoảng cách 2 km MiG 21 phóng R-3S bắn hạ 2 F-4 với 2 tên lửa.

Sơ đồ tác chiến của MiG 21Sơ đồ tác chiến của MiG 21

Ngày 11 tháng 5 hai máy bay MiG – 21, bay làm mồi nhử kéo 4 chiếc F-4 vào ổ phục kích của 2 chiếc MiG 21 bay ở độ cao thấp, MiG triển khai tấn công và 3 tên lửa tiêu diệt 2 máy bay F-4.

Ngày 13 tháng 6, một phi đoàn MiG21 đánh chặn một nhóm F-4 Phantom II. Lao vào giữa đội hình, 2 máy bay MiG 21 đã làm đội hình chiến đấu của F-4 tan vỡ, các máy bay Phantom hoảng loạn cơ động. Hai máy bay MiG còn lại phóng tên lửa hạ 2 chiếc F-4.

Ngày 18 tháng 5, Không quân Việt nam đã 26 lần xuất kích và triển khai 8 trận đánh, bắn rơi 4 máy bay F-4, phía Việt Nam không có tổn thất. Trong một trận đánh cùng ngày, 2 máy bay MiG 21 đánh chặn một phi đội F-4, chỉ huy trưởng phi đội, đại úy Ngự khi quay nửa vòng xoáy đã phóng tên lửa tiêu diệt một F-4.

Mùa hè năm 1972, tần suất hoạt động của không quân Mỹ giảm xuống. Ngày 12 tháng 6 phi đoàn máy bay Phantom đụng độ với 2 máy bay MiG 21 và bị rơi một chiếc, ngày tiếp sau lại có hai cuộc không chiến giữa F-4 và MiG 21, không quân Mỹ mất thêm 2 chiếc F-4 nữa. Phía Việt nam không có tổn thất.

Như vậy mùa xuân và mùa hè năm 1972, có 360 máy bay Mỹ tham chiến trên chiến trường miền Bắc và 96 máy bay của không quân hải quân, đại đa số là máy bay F-4 mẫu nâng cấp cuối cùng. Chống lại khối lượng vũ khí khổng lồ này là 187 máy bay không quân Việt Nam MiG 17, MiG 21 và J-6. Trong số đó chỉ có 71 máy bay có khả năng tác chiến, trong đó có 31 MiG 21.

Vào tháng 12 năm 1972, không quân Mỹ tiến hành chiến dịch tấn công ồ ạt trên toàn bộ miền Bắc, tập trung vào các thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác Linebacker II, nhằm mục đích đạt được mục tiêu chính trị trên bàn hội nghị Pari.

Để đạt được mục tiêu tàn phá các trung tâm kinh tế, quân sự của Miền Bắc Việt Nam, không quân Mỹ đã sử dụng hầu hết máy bay chiến lượng B-52 ở châu Á Thái Bình Dương.

Kế hoạch chuẩn bị một chiến dịch lớn với số lượng máy bay khổng lồ đã không giữ được bí mật, lực lượng Phòng không – Không quân Việt Nam đã chuẩn bị cho Không quân Mỹ một đòn đánh quyết liệt. Các máy bay MiG 21 đã được cất giấu trong những sân bay dã chiến và được ngụy trang kỹ càng. Sẵn sàng xuất kích bằng bộ hỗ trợ tăng tốc bằng thuốc phóng.

Sơ đồ tấn công sân bay của máy bay MỹSơ đồ tấn công sân bay của máy bay Mỹ

Tháng 9 năm 1972, duy nhất có một trận không chiến có sự tham gia của cố vấn quân sự, phi công Xô Viết. Trên máy bay MiG 21US huấn luyện 2 chỗ ngồi, không được trang bị vũ khí, phi công tiêm kích Việt Nam và cố vấn quân sự Xô Viết thực hiện chuyến bay huấn luyện thường xuyên.

Ở tầm xa 8km cách sân bay họ nhận được thông báo về một tốp F-4 đang tiếp cận ở độ cao thấp. Lúc đó MiG 21 còn lại 800 lít dầu. Thực hiện kỹ thuật thùng trượt, đội bay thoát khỏi đòn tấn công tên lửa thứ nhất, sau đó F-4 liên tục tấn công bằng tên lửa 2 lần liên tiếp, nhưng MiG US với kỹ thuật xoáy vít đã thoát khỏi, tên lửa bay trượt mục tiêu, lần thứ 3 F-4 lại tiếp tục tấn công và cũng không thu được kết quả.

Nhưng những lần cơ động đó đã tiêu hao toàn bộ lượng dầu còn lại của MiG 21. Quyết định thông minh cuối cùng là nhẩy dù, khi MiG 21 lấy độ cao thì động cơ chết máy, 2 phi công bung dù khi chiếc MiG 21US anh dũng trúng tên lửa trong lần tấn công thứ 4. Đội bay Việt Xô tiếp đất an toàn.

Trong 12 ngày chiến dịch Linebacker II trong 8 trận không chiến, người Mỹ đã triệt để sử dụng kỹ thuật gây nhiễu tích cực, kỹ thuật này đã gây rất nhiều khó khăn cho các phi công MiG 21, do không ít lần trên màn hình radar vũ khí của MiG21 hoàn toàn bị tín hiệu nhiễu phủ kín, các phi công Việt Nam phải bắn bằng kính ngắm thường và sử dụng tên lửa tự dẫn hồng ngoại, nhưng khi sử dụng tên lửa tự dẫn hồng ngoại, tầm bắn bị giảm sút và khoảng cách phóng cũng không chính xác.

Đây cũng là điểm yếu nhất của MiG 21 về radar bám và theo dõi mục tiêu. Dù vậy, trong 8 trận không chiến, không quân Mỹ cũng bị mất 7 máy bay, trong đó có 4 F-4. Đồng thời Không quân Việt Nam cũng mất 3 chiếc MiG 21. Dù với lực lượng phi công đã được huấn luyện kỹ về các chiến thuật chống MiG-21, đồng thời với chiến thuật áp dụng nhiễu dày đặc và bay đêm. Người Mỹ vẫn bị tổn thất nặng nề.

MiG 21 tấn công (Mô phỏng 3D)MiG 21 tấn công (Mô phỏng 3D)

Để phục vụ cho mục tiêu chiến lược, biết được tâm lý sợ MiG 21 và tên lửa SAM S75 của phi công Mỹ, các máy bay MiG 21 thực hiện chiến thuật không tham gia vào không chiến tay đôi, các máy bay MiG được lệnh đánh chặn từ xa, bất ngờ tấn công phóng tên lửa phá đội hình đối phương (không cần kết quả) sau đó thoát ly chiến trường và trở về sân bay, buộc các máy bay tiêm kích ném bom nặng nề F-4 phải hạ độ cao cho hỏa lực phòng không dày đặc trên mặt đất. Mặc dù chiến thuật như vậy, nhưng MiG 21 vẫn chiến ưu thế về tốc độ và khả năng cơ động trong những tầm bay trung bình và thấp trước F-4E và F-4J.

Ngày 22 tháng 12 năm 1972, đánh chặn cuộc tấn công của máy bay Mỹ, phi đội 2 chiến MiG 21 cất cánh, trong không chiến, một MiG bị bắn hạ. Ngày 23 tháng 12, phi đội 4 chiếc MiG 21 cất cánh và bắn hạ 1 F-4, ngày 27 phi đội MiG 21 lại cất cánh và không chiến với phi đoàn F-4, 2 F4 bị bắn rơi. Ngày 27 tháng 12, 2 máy bay MiG 21 trực chiến trên sân bay Nội Bài, theo thông báo của radar mặt đất phát hiện một phi đoàn F 4. MiG 21 bay ở độ cao thấp 300 m so với mặt đất, bí mật tiếp cận mục tiêu, tăng tốc và lấy độ cao.

Mục tiêu được phát hiện bằng mắt thường ở khoảng cách 8 km, sau khí xin lệnh tấn công, MiG 21 bất ngờ tiếp cận mục tiêu, F-4 không kịp triển khai đội hình phòng thủ, MiG 21 đã áp sát và phóng tên lửa diệt 1 F4. Chỉ huy đội bay khi quay về phát hiện thêm 2 F4 đáng bám phi công số 2, bằng 1 kỹ thuật cơ động điêu luyện số 1 đã phá đội hình đối phương, cắt số 2 khỏi tốp F4.

Vòng xoáy hỗn chiến xảy ra giữa từng đôi MiG và Phantom II, kết quả số 1 thoát khỏi truy đuổi của F-4 hạ cánh an toàn, số 2 khi thực hiện xoáy trôn ốc lên cao đã bắn hạ thêm một F-4, nhưng máy bay cũng bị thương nặng do tên lửa Sidewinder nổ gần với ống xả phản lực. Phi công Việt Nam nhảy dù an toàn.

Trong đợt không kích của B-52, do sợ MiG 21 tấn công, F-4 đã đóng vai trò mục tiêu giả và phục kích, phi đội F-4 bay với tốc độ hành trình và đội hình đi sát với nhau. Trên màn hình radar mục tiêu tương tự như mục tiêu B-52, khi MiG tấn công, F-4 sẽ bay tản ra, cơ động tấn công MiG.

Trong các tài liệu của không quân Việt Nam không có nguồn tài liệu nào ghi lại một trận đánh như vậy. Nhưng 2 máy bay B-52 đã bị MiG-21 bắn hạ, một chiếc bị phi công anh hùng Phạm Tuân bắn hạ ở tầm bắn 2000 m. một chiếc bị phi công anh hùng Vũ Quang Thiều bắn trong tầm bắn gần, máy bay đã lao vào điểm nổ. anh hùng phi công Vũ Quang Thiều hy sinh.

Trong cả năm 1972, giữa không quân Mỹ và không quân Việt Nam xảy ra 201 trận không chiến. Phía Việt Nam mất 54 máy bay, trong đó có 36 máy bay MiG 21 và 1 máy bay huấn luyện MiG 21 US. Phía Mỹ thiệt hại 90 máy bay trong đó có 74 máy bay F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C. Riêng MiG 21 diệt 67 máy bay đối phương.

Chiến thắng kỳ lạ cuối cùng của người Mỹ trong cuộc chiến tranh không quân ở Việt Nam là máy bay F-4J Phantom II cất cánh từ tầu sân bay MidWay, chỉ huy trung úy Victor Covalevski bằng một tên lửa Sidewinder bắn hạ một máy bay MiG 17, nhưng cũng sau hai ngày, chính chiếc F-4J này cũng bị bắn hạ trên bầu trời Việt Nam, nó cố lết ra biển và rơi, 2 phi công được cứu thoát.

Như vậy, tỷ lệ 2/1 gần như được giữ suốt cuộc chiến tranh trên không giữa không quân Mỹ và không quân Việt Nam. Từ góc độ kỹ chiến thuật, có thể nhận thấy rằng: Mặc dù liên tục thay đổi chiến thuật và phương thức tác chiến, vũ khí trang bị, với những phi công dày dạn kinh nghiệm và có số lượng giờ bay hơn rất nhiều lần, nhưng không quân Mỹ cũng không thể tiêu diệt được lực lượng không quân Việt Nam, mà còn bị tổn thất nặng nề, với không gian thu hẹp của chiến trường Miền Bắc Việt Nam, với gần 4000 máy bay bị tổn thất, có thể nói. Người Mỹ đã thua trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam.

Nguyên nhân:

Phi công Mỹ phải chiến đấu trên 2 mặt trận: Vừa phải chống lại những phi công MiG điêu luyện, vừa phải chống lại những khiếm khuyết kỹ thuật của F-4 nặng nề. Nếu phi công được huấn luyện cho phương thức tác chiến năng động, cơ động, nhưng lại phải điều khiển một máy bay kém cơ động.

Đó là một vấn đề, F-4 chỉ có khả năng né tránh một cuộc công kích do quá nặng nề, mà không có khả năng phản kích do máy bay MiG 21 nhẹ hơn, góc ngoặt và khả năng tăng tốc cao hơn để chiếm vị trí thuận lợi cho tấn công.

Trong điều kiện hộ tống máy bay ném bom đến mục tiêu cần đánh phá, nhiệm vụ đặt ra đã làm cho F-4 không có khả năng chủ động tác chiến tự do, cơ động và hỗn chiến cùng với máy bay đối phương, mà chỉ có khả năng chống trả và phòng ngự thụ động.

Khi xuất hiến nhóm tiêm kích “topgun” Tình hình chiến trường có thay đổi, nhưng sức mạnh của tên lửa S-75 và lưới lửa phòng không mặt đất dày đặc đã khóa khả năng tác chiến của những phi công có trình độ chiến thuật cao. Do đó, với sự phối hợp giữa đài radar trinh sát dẫn đường, tên lửa phòng không và pháo phòng không với không quân đã tăng khả năng tác chiến của không quân Việt Nam nhiều lần.

Các phi công Việt Nam đã thành công trong việc áp đặt cách đánh đối với phi công Mỹ, kế hoạch phục kích và tấn công đã buộc không quân Mỹ vào thế phòng thủ bị động, khi chuyển sang tấn công cũng thụ động và kém linh hoạt hơn.

Mặc dù tỷ lệ tổn thất của máy bay Mỹ so với tỷ lệ tổn thất của MiG khá cao 2:1 nhưng rõ ràng khả năng tổn thất sẽ giảm hơn nếu những phi công Việt Nam có số giờ bay cao hơn, kinh nghiệm tác chiến cao hơn và sử dụng triệt để tính năng kỹ chiến thuật của MiG 21.

Sơ đồ hoạt động tác chiến của không quân Việt NamSơ đồ hoạt động tác chiến của không quân Việt Nam

Bài học kinh nghiệm: Cuộc chiến tranh trên không phận Việt Nam để lại nhiều dấu ấn đặc biệt, lực lượng không quân còn non trẻ của Việt Nam đã thành công trong việc đối đầu với lực lượng không quân hùng mạnh, dày dạn kinh nghiệm của Mỹ.

Có nhiều vấn đề còn phải bàn cãi, nhưng nếu lực lượng không quân Việt Nam có được sự đầy đủ về vũ khí trang bị và phương tiện chiến tranh, kinh nghiệm tác chiến cũng như thời gian huấn luyện tác chiến, thì tổn thất của người Mỹ trong cuộc không chiến này sẽ không dừng lại ở tỷ lệ 2/1 và chỉ có 2 B52 bị MiG 21 tiêu diệt trên bầu trời Hà Nội.

Không chiến ở Việt Nam đã khẳng định: tốc độ, sức cơ động với chiến thuật thông minh, nắm chắc tính năng kỹ chiến thuật của phương tiện, đồng thời với sự chỉ huy năng động, sáng tạo, đồng bộ chặt chẽ từ ban chỉ huy cấp chiến lược, chiến dịch  đến sự tuân thủ tuyệt đối của người phi công với người chỉ huy trực tiếp của mình quyết định sự thành bại trên chiến trường.

Sức mạnh của lực lượng không quân trong không chiến phần lớn phụ thuộc vào sự phối kết hợp các phương tiện hỏa lực, phương tiện trinh sát, cảnh báo sớm và khả năng khai thác tuyệt đối tính năng kỹ chiến thuật của phương tiện bay, đồng thời là sự năng động, sáng tạo, trình độ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của phi công trên cánh bay. Phối kết hợp chặt chẽ giữa các thành viên trong đội bay và tuân thủ mệnh lệnh.

Trong chiến tranh hiện đại, những máy bay tiêm kích đa dụng như F 16, F18, MiG 29, SU 30MK có rất nhiều điểm mạnh, hệ thống radar công suất lớn, tên lửa không đối khống có khả năng tấn công từ tầm rất xa, súng máy rất mạnh, tính cơ động rất cao. Nhưng cuộc không chiến dường như không phải đơn thuần là cuộc đối đầu về kỹ thuật.

Và còn là cuộc đối đầu vể năng lực tác chiến, kỹ năng cơ động tấn công và phòng thủ, đặc biệt là kỹ năng phát hiện mục tiêu trong mọi điều kiện thời tiết, tránh tên lửa không đối không và các kỹ xảo bay phức tạp, cận chiến và thoát hiểm.

Dù chiến tranh đã qua đi rất lâu, nhưng phân tích những bài học kinh nghiệm của các cuộc không chiến, những kỹ năng mà phi công cả hai bên thực hiện trong cuộc đối đầu không cân sức, những chiến thuật mà hai bên thực hiện, những chiến thắng và tổn thất vẫn là bài học quan trọng trong chiến tranh hiện đại.

Theo Trịnh Thái Bằng/Giáo Dục Quốc Phòng Việt Nam

giaoduc.net.vn

Những trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam

Tháng Tư 2, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, quân dân ta đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Mỗi chiến công đã để lại một mốc son chói lọi và làm rạng rỡ nền văn hóa quân sự độc đáo Việt Nam. Xin giới thiệu 5 trận thắng tiêu biểu nhất từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII.

Tranh minh họa trận đánh trên sông Bạch Đằng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ ba, năm 1288

Khí thiêng sông núi đọng lại ở Bạch Đằng

Cuối năm 938, Ngô Quyền (898-944) đã huy động quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy lòng sông Bạch Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa ngầm, hai bên bờ có quân mai phục. Giặc tới, nước triều đang lên ngập hết bãi cọc, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng, rồi vờ thua chạy. Đợi khi nước thủy triều rút xuống, Ngô Quyền hạ lệnh cho toàn quân đánh quật trở lại. Thủy quân giặc hốt hoảng quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm phải cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm rất nhiều. Quân giặc phần bị giết, phần chết đuối, phần còn lại phải đầu hàng hoặc bị quân ta bắt sống.

Trong tâm thức nghìn năm của người Việt Nam, Bạch Đằng đã trở thành điểm hội tụ của sức sống dân tộc, đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh: “Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật/Giang san vương khí Bạch Đằng thâu” (Kỳ quan của vũ trụ là mặt trời lên tại hang Dương Cốc/Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng).

Như Nguyệt , thế thắng như vũ bão

Ngày 8-1-1077, quân xâm lược Tống tiến vào nước ta theo hai ngả ở biên giới phía Bắc và một ngả theo đường biển Đông Bắc. Một đêm tháng 3 năm đó, 400 chiến thuyền của quân ta ngược dòng sông Như Nguyệt bất ngờ đánh vào cụm quân Quách Quỳ từ hướng Đông. Địch bị bất ngờ, ta thừa thắng chia cắt thành từng mảng và tiêu diệt. Từ hướng Tây Bắc, Lý Thường Kiệt kéo chủ lực vu hồi vào đạo quân Quách Quỳ cách đó 30km. Đạo quân của Thân Cảnh Phúc chặn ở Chi Lăng, phía sau quân ta truy kích theo. Phần lớn quân địch bị tiêu diệt và số còn lại buộc phải rút về nước.

Trận đánh trên sông Như Nguyệt nằm trong tổng thể ý đồ tác chiến chiến lược của Lý Thường Kiệt là tiến công sang đất địch, rồi tổ chức phòng ngự chiến lược để phản công đánh bại hoàn toàn ý đồ xâm lược của chúng. Trong thế thắng, ta vẫn chủ động giảng hòa, mở đường cho giặc rút về nước.

Ba lần đại thắng quân Nguyên Mông

Tháng 1-1258, một đạo quân gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Quân ta rút lui, bỏ Thăng Long lại phía sau, nhưng triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Ngày 29-1-1258, vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân Nam. Cuộc xâm lược thứ nhất của chúng bị thất bại.

Cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy về nước. Cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai bị sụp đổ.

Ngày 9-4-1288, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Đến đầu giờ tối, toàn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt. Thêm một lần nữa, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt.

Trong vòng ba mươi năm, quân dân ta đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất thời đó, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước. Sức mạnh để làm nên chiến thắng vĩ đại ấy là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Đạo đã nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức” và: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.

Trận Chi Lăng-Xương Giang, điển hình về chiến thuật tổng hợp

Cuối năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi-Nguyễn Trãi lãnh đạo chống quân Minh xâm lược bước sang năm thứ 10 và đã đứng trước cửa ngõ thắng lợi hoàn toàn. Nhưng để cứu vãn đạo quân Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Quan, giặc Minh đã quyết định phái sang nước ta một đạo viện binh gồm 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy. Ngày 10-10, đội tiền quân do Liễu Thăng dẫn đầu rất chủ quan nên đã rơi vào trận địa phục kích của Lê Sát ở cửa ải Chi Lăng. Toàn bộ 1 vạn tên của đội quân này cùng với chủ tướng Liễu Thăng bị diệt dưới chân Mã Yên-Chi Lăng. Đạo viện binh bị tiêu diệt, Vương Thông bị vây ở thành Đông Quan phải đầu hàng và buộc nhà Minh phải chấp nhận rút các lực lượng còn lại về nước, thừa nhận nền độc lập của nước ta.

Việc kết hợp tiến công quân sự với nghi binh, địch vận và vận dụng thành công các hình thức chiến thuật: phục kích, tập kích, truy kích, công thành, tác chiến trận địa… trong trận Chi Lăng-Xương Giang đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong nghệ thuật quân sự của quân ta.

Đại thắng Thăng Long trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789

Cuối năm Mậu Thân (1788), 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Mờ sáng mùng 5 Tết (30-1-1789), đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi-Đầm Mực. Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long. Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ.

Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, quân ta đã đặt quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm bại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng xuân Kỷ Dậu 1789 biểu thị tập trung thiên tài quân sự của người Anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung-Nguyễn Huệ.

LÃNG XUYÊN

DI SẢN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA TỔ TIÊN

Tháng Tư 2, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nghiên cứu về chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ XVIII, có thể phân các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh thành hai loại, đó là các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, và các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nghệ thuật quân sự trong giai đoạn này vì thế cũng bao gồm cả nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang, nghệ thuật quân sự của chiến tranh giải phóng và nghệ thuật quân sự của chiến tranh giữ nước. Sự hình thành và phát triển liên tục kế tiếp nhau và đan xen nhau của các loại hình đó đã đưa đến sự hình thành và phát triển mạnh mẽ, đặc sắc của một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam mà chúng ta đã thừa kế, vận dụng.

“Nền độc lập của nước ta gắn liền với những chiến công oanh liệt của cha ông ta chống lại nhiều đạo quân xâm lược rất mạnh…”

Các cuộc chiến tranh trong lịch sử của dân tộc ta diễn ra trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng những chiến công hiển hách của Tổ tiên ta đều có những biểu hiện tương đối thống nhất của một nền nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh độc đáo, ưu việt.

“Chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ định lịch sử và tinh hoa của một dân tộc; ngược lại nó còn phát triển những tinh hoa đó đến một trình độ mới trong điều kiện lịch sử mới. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, dân tộc ta đã từng bao phen anh dũng đứng dậy chống nạn ngoại xâm, giữ gìn độc lập cho đất nước. Trong các cuộc đấu tranh vũ trang đó, dân tộc ta đã có những sáng tạo kiệt xuất về tài thao lược.”(1)

Trước nạn ngoại xâm, dân tộc ta không có con đường nào khác là con đường đứng lên cầm vũ khí chống quân thù. Nhưng quân xâm lược là một kẻ địch có lực lượng quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Để đánh bại một kẻ địch như vậy, Tổ tiên ta đã biết tìm sức mạnh trong khối đoàn kết toàn dân. Còn phải sáng tạo ra cách đánh như thế nào để đánh thắng địch.

Đất nước ta không rộng, người nước ta không đông, địch là một nước lớn, người nhiều của nhiều. Cho nên để giữ gìn đất nước, yêu cầu của dân tộc ta là phải đánh quyết liệt, phải thắng oanh liệt, phải lập nên những chiến công vang dội, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm tan rã ý chí xâm lược của chúng.

Do điều kiện lịch sử trước đây, nền nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Tổ tiên ta không thoát khỏi sự ràng buộc và hạn chế ý thức hệ phong kiến, nhưng từ đời này qua đời khác, nó cũng đã được xây dựng tương đối toàn diện.

Đặc điểm nền nghệ thuật đó là:

1. Nghệ thuật đó không những chỉ đạo lực lượng vũ trang, mà còn chỉ đạo nhân dân vũ trang kết hợp với lực lượng vũ trang.

Nghệ thuật do không chỉ dựa vào quân đội, mà dựa vào dân chúng và quân đội để giành chiến thắng. Toàn dân đánh giặc, điều đó đã được nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược trong lịch sử ta chứng minh. Nhân dân không những cất giấu lương thực, thực hành “thanh giã” gây cho địch nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực, mà còn trực tiếp giết giặc. Ở nước ta, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, thiếu niên, phụ lão cũng đánh, những điều đó đã có từ ngàn xưa.

Nêu lên điểm đó

Nhà quân sự vĩ đại Trần Quốc Tuấn có nói: “Cả nước góp sức chiến đấu nên giặc phải bó tay”. Theo nhà sử học thế kỷ thứ XIX Phan Huy Chú thì “đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh “.(2)

Với lực lượng vũ trang của cả nước, lực lượng vũ trang các địa phương kết hợp với thổ binh, hương binh, dân binh và dân chúng, sức mạnh của toàn dân, toàn quân được phát huy đến độ cao để diệt giặc.

2. Trong điều kiện ta là một nước đất không rộng, người không đông, phải đánh thắng những quân đội xâm lược lớn mạnh, dân tộc ta đã tạo nên một nghệ thuật mà Tổ tiên ta gọi là “lấy ít đánh nhiều, lấy yếu trị mạnh, lấy đoản chống trường”.

Trong nhiều cuộc chiến tranh, quân và dân ta đã đánh địch cả ở trước mặt và sau lưng, đánh địch tại chỗ, không những tiêu diệt sinh lực địch mà còn làm tan rã quân xâm lược về tổ chức và về tinh thần, không những đánh tập trung mà còn đánh phân tán, dùng nhiều cách đánh, đánh những đòn oanh liệt làm cho địch gãy xương sống, nát xương sườn. Tổ tiên ta coi trọng việc dùng lực lượng một cách hợp lý, nhằm đạt hiệu lực cao, như Nguyễn Trãi nói: “sức dùng có nửa, công được gấp đôi”. Không những biết giành thắng lợi quân sự quyết định mà còn có biện pháp để củng cố những thắng lợi đó.

Câu ca dao từ ngàn xưa:

Nực cười, châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”
.

có thể nói lên phần nào đặc điểm này.

3. Nghệ thuật đó xây dựng trên cơ sở một tinh thần yêu nước rất cao, một tinh thần quật cường bất khuất, tự lập tự cường rất mạnh, trên cơ sở tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh, nên có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tích cực chủ động rất cao. Nền nghệ thuật đó biết phát huy những chỗ mạnh mọi mặt của mình nhất là chỗ mạnh về tính chất chính nghĩa, về ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc, về chất lượng mọi mặt của quân đội, để đánh quân địch vào chỗ chúng yếu, lúc chúng yếu. Nhiều nhà quân sự nổi tiếng thời xưa thường nhấn mạnh cách đánh chủ động linh hoạt, nhử người đến, chứ không để người nhử, cách đánh vu hồi, bao vây chặt chẽ để tiêu diệt gọn, tiến công liên tục, dồn địch vào thế bị động chịu đòn, không có cách nào thoát khỏi bị tiêu diệt.

4. Nghệ thuật đó rất sáng tạo, độc đáo, rất xuất sắc, tinh vi, rất mưu trí và linh hoạt:

“Ông cha ta ngày trước có nhiều sáng tạo về cách đánh giặc, không có sáng tạo đó, không thể giữ được nước, không thể giành lược tự do “.(3)

Anh dũng và thông minh là hai yếu tố tạo nên súc mạnh của dân tộc ta trong chiến đấu chông ngoại xâm“.(4)

Tổ tiên ta biết dựa trên yếu tố chính nghĩa, trên tinh thần yêu nước nồng nàn và chiến đấu anh dũng của quân và dân, phát huy mọi cái mạnh của ta trong điều kiện ta chiến đấu trên đất nước mình, đánh bại những đạo quân xâm lược từ xa đến, mà sáng tạo ra cách đánh của ta, buộc địch phục tùng ý chí của ta, buộc địch đánh theo cách đánh có lợi cho ta, không cho địch đánh theo cách đánh sở trường của chúng.

Nguyễn Huệ nói: “Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít”.(5)

Trong chỉ đạo chiến tranh, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh: “Phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng biến cho đúng”.(6)

Ngô Thời Nhiệm, một tướng giỏi của Nguyễn Huệ, cho rằng là một người tướng giỏi phải biết“lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ”.(7)

Sức sáng tạo của dân tộc ta thể hiện ở chỗ, không phải chỉ có quân đội đánh giặc, mà là cả nhân dân và quân đội cùng đánh. Ta yếu mà ta đánh thắng đó cũng là sáng tạo. Sự nỗ lực chủ quan phi thường của toàn dân tộc, sức sống mãnh liệt của nền nghệ thuật đó cũng nói lên sức sáng tạo này.

Nền nghệ thuật đó dựa trên cơ sở đánh giá địch ta một cách bình tĩnh, hiểu địch, hiểu ta một cách sâu sắc.

Trần Quốc Tuấn cho rằng: “Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió như lửa, thì thế giặc có thể dễ chống cự được”

Nguyễn Trái nói: “Tri kỷ tri bỉ, năng nhược năng cường”.(9) Nghĩa là biết người biết ta, có thế yếu, có thế mạnh.

Tổ tiên ta đã không nao núng vì sức mạnh tạm thời của địch, không bị uy hiếp vũ bão bên ngoài của chúng. Những nhà quân sự thời xưa của ta hiểu rõ ta không phải chỉ có yếu, mà còn có mạnh, hơn nữa có những chỗ mạnh rất cơ bản; còn địch, không phải chỉ có mạnh, mà còn có yếu, những chỗ yếu trí mạng tất yếu; đồng thời cũng thấy rõ những chỗ và lúc địch yếu, ta mạnh để có những chủ trương chiến lược thích hợp.

Nhìn bao quát cả cuộc chiến tranh, Tổ tiên ta không sợ địch, tin tưởng mình có thể đánh bại địch. Trong việc xử trí tình huống chiến lược cụ thể thì không khinh địch, đánh giá đúng mức sức mạnh ban đầu của quân xâm lược: lúc quân địch còn mạnh thì ta hành động rất thận trọng, nhưng khi địch đã trở thành yếu lại hành động rất táo bạo. Trước thanh thế lớn lao của quân Thanh tiến vào xâm lược nước ta, lời phân tích của Ngô Thời Nhiệm sau đây nêu rõ được phần nào điều đã nói trên: “Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích, của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì”,(10) (chúng tôi nhấn mạnh T.G).

Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tình thế khách quan, biết địch biết ta một cách đúng đắn, Tổ tiên ta đã phát huy đến mức độ cao nỗ lực chủ quan, phát huy đến độ cao trí tuệ của mình, tìm ra trăm phương nghìn kế, khắc phục muôn vàn khó khăn gian khổ và đã lập nên những chiến công kỳ lạ. Đó cũng chính là điều kiện làm cho tính sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh đạt đến trình độ rất cao, câu nói của Nguyễn Trãi có thể nêu rõ điều đó:

“Có lẽ nhiều tai nạn chính là cái gốc để dựng nước, mà sự băn khoăn lo lắng cũng là cái nền đề mở ra nghiệp thánh.

Trải biến cố nhiều thì trí lự sâu.
Lo công việc xa thì thành công kỳ.
Đế vương nổi lên, ai cũng thế này”.
(11)

Yếu có thể đánh mạnh, ít đánh nhiều là do tinh thần dũng cảm, dám đánh và sau đó là biết đánh: đánh mai phục, lừa địch vào sâu, toàn dân đều đánh, v.v.

Có thể nêu lên một số nội dung chính của nền nghệ thuật đó thành 3 vấn đề lớn như sau:
A. Chỉ đạo quân sự.
B. Địch vận.
C. Đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao.

—————————————————

1. Võ Nguyên Giáp. Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970 tr 43.
2. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, tập IV, bản dịch. Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1961, tr.6.
3 . Lê Duẩn. Thanh niên trong lực lượng vũ trang hãy vươn lên hơn nữa phấn đấu cho lý tưởng cách mạng, đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1969, tr.2.
4. Lê Duẩn. Cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng của cả dân tộc. Tạp chí Quân đội nhân dân, số 12 năm 1960 tr.5.
5. Tây Sơn bang giao tập. Dẫn trong “Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ” của Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1971, bản in lần thứ hai, tr.344.
6. Việt sử thông giám cương mục. Tập V, bản dịch, tr. 100.
7. Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964, tr.342.
8. Việt sử thông giám cương mục, tập V, tr. 99.
9. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, bản dịch. Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1962, tr. 115.
10. Ngô gia văn phái, tài liệu đã dẫn, tr. 342.
11. Nguyễn Trãi. Chí Linh sơn phú.

A – CHỈ ĐẠO QUÂN SỰ

1. Trong chỉ đạo tác chiến về chiến lược, chiến thuật, dân tộc ta đã từng có kinh nghiệm tốt về đánh lâu dài:

Xét thực tiễn diễn biến của nhiều cuộc chiến tranh thắng lợi có thể thấy rõ Tổ tiên ta không bao giờ đi chệch khỏi mục đích quân sự cuối cùng là tiến công tiêu diệt địch trên đất nước ta. Nhưng Tổ tiên ta cũng không hề tách mục đích cần đạt đó với điều kiện khách quan là lúc đầu lực lượng quân sự địch mạnh, ta yếu.

Trước quân địch lớn mạnh, các nhà quân sự ta đã biết tránh quyết chiến trong điều kiện không có lợi khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu nhằm bảo toàn lực lượng tranh thủ thời gian, tạo nên thế có lợi cho ta, làm địch suy yếu, bồi dưỡng lực lượng ta, rồi từng bước tiêu diệt quân địch mà giành thắng lợi trong chiến tranh.

Trong chiến tranh tự vệ, trước thế tiến công mạnh mẽ của quân địch có ưu thế về số lượng. Tổ tiên ta đã tránh không dốc toàn bộ lực lượng để hòng phân thắng bại, giành thắng lợi nhanh chóng ngay buổi đầu, mà đã biết thực hành rút lui chiến lược, có gan rút bỏ kinh đô, cho địch vào sâu mà tiêu hao địch. Trong chiến tranh chống quân Nguyên lần thứ nhất, trước ý định của vua Trần quyết chiến với địch trong điều kiện không có lợi ở gần biên giới, tướng Lê Phủ Trân đã can rằng: “Làm như vậy thì chỉ như những người dốc hết túi tiền để đánh nốt tiếng bạc mà thôi”(12), và khuyên “hãy nên lánh đi”(13). Trong chiến tranh chống quân Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã chủ trương “Nguyên binh khí nhuệ đương hưng, kịp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”(14). Do đó quyết định rút khỏi Vạn Kiếp, rút khỏi kinh thành. Nhận xét về chủ trương rút bỏ Thăng Long của Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Huệ đã đánh giá “Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiên cho lòng quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng…”(15).

Nhưng rút lui chiến lược của Tổ tiên ta có những nét độc đáo. Đất nước ta không rộng, chiều sâu không lớn, nếu cứ rút mãi thì sẽ không còn đất để mà rút, phải tự hãm mình vào thế bị động nghiêm trọng. Trong chiến tranh chống quân Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã chặn đứng địch ở phía nam, trong khi ở phía bắc thì chỉ huy chủ lực rút lui từng bước. Trong cuộc chiến tranh này cũng như nhiều cuộc chiến tranh tự vệ khác, khi chủ lực rút lui, quân địa phương vẫn ở lại phối hợp với thổ binh, dân binh, hương binh đánh địch tại chỗ, thực hiện rút phía trước nhưng đánh mạnh phía sau lưng địch. Tóm lại, trong quá trình rút lui vẫn tiến công tích cực. Trong lịch sử dân tộc, cũng có những nhà cầm quân không biết tiếp thu nghệ thuật đúng đắn đó của dân tộc, nên đã bị thất bại; trong chiến tranh chống quân Minh dưới thời Hồ, trận quyết chiến thất bại ở Đa Bang, rồi chỉ rút chạy dài mà không tích cực tiến công địch, đã đưa cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta đến thất bại.

Thừa nhận sự cần thiết rút lui chiến lược, biết cách rút lui đúng đắn và có lợi, các nhà quân sự ta còn thông thạo trong việc tạo nên điều kiện để chuyển sang quật trả lại địch những đòn quyết liệt, biết vận dụng một cách sáng tạo nguyên tắc quân sự cổ điển “Dĩ dật đãi lao” tức là lấy nhàn chờ mệt, lấy mạnh chờ yếu, lấy sung sức chờ hao mòn. Trong quá trình phòng ngự, rút lui, không những đã liên tục tiêu hao địch, buộc địch phải chịu ảnh hưởng không lợi của khí hậu và địa hình nước ta, hãm chúng vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng, mà còn biết buộc địch rải quân ra (như Trần Quốc Tuấn) hoặc làm cho địch sơ hở phạm sai lầm (như Nguyễn Huệ) tức là tạo nên một thế chiến lược khiến cho địch từ mạnh trở thành yếu, tự bộc lộ nhược điểm, để diệt đội quân xâm lược lớn mạnh.

Để đạt tới mục đích đó, các nhà quân sự ta thường dùng hai cách: Một là, khi địch đã rải quân, ta đi từ thắng lợi nhỏ, vừa, đến thắng lợi lớn, tạo nên bước ngoặt trong chiến tranh. Trong trường hợp này, Tổ tiên ta đã tỏ ra biết nắm quy luật phát triển của địch trong chiến tranh. Trong quá trình ta phản công, quân địch bị tiêu diệt từng bộ phận ngày càng lớn hơn, đến một mức nào đó, khi nhưng đạo quân nào đó bị tiêu diệt, thì đoàn quân xâm lược to lớn của địch bắt đầu tan rã (như Lý Thường Kiệt đánh quân Tống, Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên). Khi chưa tạo ra được bước ngoặt chiến lược Tổ tiên ta biết đánh địch một cách vừng chắc. Khi thì lấy ít thắng nhiều, khi thì lấy nhiều thắng ít, tiêu diệt tiêu hao địch, tạo ra từng bước chuyển biến, nhưng chủ yếu vẫn là lấy ít thắng nhiều. Nhưng sau khi bước ngoặt diễn ra, lại táo bạo lấy ít đánh nhiều, dốc lực lượng thường không nhiều của mình đánh vào toàn bộ quân địch với số lượng còn to lớn nhưng chất lượng đã suy sụp mà giành thắng lợi quyết định cho cuộc chiến tranh tự vệ. Hai là, địch tuy chưa rải quân nhưng có sơ hở nên ta thực hành chia cắt địch ra từng mảng, giáng những đòn mãnh liệt vào chỗ hiểm nhất của địch, đánh vào trung tâm đầu não của chúng khiến cho địch choáng váng, kinh hoàng, rối loạn, tê liệt, (như Nguyễn Huệ đánh quân Thanh). Từ những cuộc chiến tranh thắng lợi đó có thể thấy rằng ngay trong khi rút lui chiến lược, các nhà quân sự ta luôn luôn nhằm vào mục đích phản công tiêu diệt địch, tích cực tạo điều kiện để chuyển sang phản công chiến lược. Trong phản công chiến lược đã sáng tạo ra cách đánh tiến công lần lượt hoặc đồng thời, tiến công từ nhỏ đến lớn hoặc đánh một đòn quyết định.

Trong chiến tranh giải phóng, Tổ tiên ta đã thực hiện chiến lược đánh lâu dài một cách khác. Trong điều kiện dân tộc ta sống dưới sự thống trị của phong kiến nước ngoài và bè lũ tay sai, các nhà yêu nước ngày xưa đã nắm được khá chính xác tình hình so sánh lực lượng giữa hai bên, thấy rõ thế và lực của địch và ta, lãnh đạo dân tộc vùng lên khởi nghĩa, thực hành liên tục tiến công địch cho đến khi đánh đổ hoàn toàn nền thống trị của chúng. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành chiến tranh giải phóng lâu dài. Trong quá trình đó, về chiến lược ta không ngừng tiến công địch trong nhiều năm liền (không kể thời gian đình chiến) với quy mô ngày càng to lớn cho đến thắng lợi hoàn toàn. Còn địch thì không ngừng phản công hòng tiêu diệt lực lượng khởi nghĩa và khôi phục nền thống trị của chúng. Chúng nhiều lần tăng thêm quân đội từ chính quốc nhưng thế phản công chung của chúng không ngừng sút kém; chúng ngày càng đi sâu vào thế phòng ngự cho đến khi chịu thất bại hoàn toàn. Trên chiến trường, quá trình giao tranh giữa ta và địch diễn ra theo hình thái: ta tiến công và phản công đánh tan các cuộc phản công và tiến công của địch cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Khi mới bắt đầu đứng lên tiến công địch, tuy thế chính trị và chiến lược trên những mặt nào đó có lợi cho ta không lợi cho địch, nhưng lực lượng quân sự địch nhiều hơn ta. Trong điều kiện đó các nhà quân sự ta đã cho biết “chờ thời cơ để lừa khi địch mỏi mệt, giấu mũi nhọn và bít ánh sáng” buộc địch phải đánh lâu dài, ngày càng tiêu hao, suy yếu; còn ta có thể tránh thủ thời gian xây dựng, mở rộng lực lượng vũ trang và chỗ đứng chân của mình. Do đó mà tạo nên thời cơ chiến lược có lợi giáng cho địch những đòn quyết định, trong những năm sau của cuộc chiến tranh giải phóng lâu dài.

Khởi nghĩa Lam Sơn và nhiều cuộc khởi nghĩa khác của dân tộc ta trong lịch sử đã sáng tạo ra một kinh nghiệm quý báu: Trong thế chính trị và chiến lược chung có lợi ích cho ta, không lợi cho địch ở một số mặt, có thể tạo thành ưu thế cục bộ mà tiến công địch, phát triển tiến công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục, giành thắng lợi hoàn toàn trong chiến tranh giải phóng lâu dài.

Có thể nói hình thái phát triển của những cuộc chiến tranh tự vệ và giải phóng đã nói trên như sau:

Thời Lý: Phòng ngự chiến lược tích cực, phản công chiến lược.

Thời Trần: Rút lui chiến lược, phản công chiến lược.

Thời Tây Sơn: Rút lui chiến lược, phản công chiến lược.

Thời Lê: Liên tục tiến công chiến lược từ nhỏ đến lớn (có 2 năm đình chiến).

Thời Hồ: Phòng ngự, rút lui.

Trong bốn cuộc chiến tranh thắng lợi trên, nhờ biết tránh quyết chiến chiến lược trong điều kiện không lợi, tiến lên quyết chiến trong điều kiện có lợi, Tổ tiên ta đã đưa chiến tranh lâu dài đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, trong chiến tranh thời Hồ, do bị buộc phải quyết chiến với địch trong điều kiện không lợi cho ta mà lợi cho địch, không biết bảo toàn chủ lực trong tình hình địch mạnh, ta yếu, dốc sức để phân thắng bại ngay từ đầu, kết quả là chủ lực tan vỡ. Do không nắm vững được quy luật chỉ đạo chiến tranh tự vệ theo chiến lược đánh lâu dài của thời Lý, thời Trần, nên bị thất bại là điều tất yếu.

Đáng chú ý là các nhà quân sự của ta nghiên cứu, tham khảo Tôn Tử, nhưng không theo quan điểm “thắng nhanh” của Tôn Tử. Binh pháp Tôn Tử cho rằng “việc dùng binh, chỉ nghe nói có tốc quyết vụng về, chứ không thấy có lâu dài, khôn khéo; chiến tranh lâu dài mà có lợi cho quốc gia là việc không thế có”. Biết đánh lâu dài, điều đó chứng tỏ tinh thần độc lập sáng tạo của Tổ tiên ta.

Chính sách “Ngụ binh ư nông” (nghĩa là đặt binh ở nông thôn) được thi hành ở nước ta từ khá sớm, nhất là từ thời kỳ Lý, Trần trở đi. Chính sách đó nhằm bảo đảm có số quân tập trung của triều đình đến mức cần thiết và hợp lý, giảm một phần nào đóng góp của nhân dân và tiêu dùng của nhà nước, bảo đảm có sức sản xuất để đánh lâu dài. Điều quan trọng hơn nữa là với chính sách đó, ngoài việc bảo đảm có quân đội tập trung, còn tổ chức nên những đội dân binh (hương binh, thổ binh) bảo vệ các thôn, ấp, đánh địch tại chỗ. Thời Lê lại phát triển đến chính sách “vừa đánh giặc vừa cày ruộng” nhằm bảo đảm xây dựng “chỗ đứng chân” để từ đó tiến lên giải phóng toàn bộ đất nước. Đó là những điều kiện rất quan trọng để có thể đánh lâu dài.

Đánh lâu dài rõ ràng là một kinh nghiệm quý báu của dân tộc ta. Khi thì đánh đòn phủ đầu trước, khiến địch phải tiến quân trong thế bị động, rồi chặn đứng địch trên tuyến thuận lợi đã chuẩn bị sẵn, chuyển sang quật trả địch (Lý). Khi thì cho địch vào thật sâu, buộc địch rải quân, rồi chọn thời gian, địa điểm tốt, đánh địch từng trận đến khi tiêu diệt toàn bộ (Trần). Khi thì lập chỗ đứng chân quần nhau lâu dài với địch, rồi tiến lên đánh bại hoàn toàn quân địch (Lê). Khi thì chủ động rút, nhân sơ hở của địch, điều động chủ lựe từ xa tới, chiến thắng địch trong một trận thần tốc (Tây Sơn)…Hình thức nhiều hình nhiều vẻ, nhưng nội dung là một: tránh quyết chiến với địch trong điều kiện không lợi, làm cho địch từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh phải chuyển sang đánh lâu dài, đợi cho địch từ mạnh trở thành yếu, lực còn nhiều nhưng thế đã yếu, số lượng còn đông nhưng chất lượng đã kém; còn ta thì giữ gìn và bồi dưỡng được lực lượng, tiến lên đánh cho địch một đòn hoặc nhiều đòn quyết chiến chiến lược liên tiếp, tiêu diệt phần lớn hay toàn bộ quân địch, giành thắng lợi to lớn. Điều đáng chú ý là, trong quá trình đánh lâu dài như vậy, các nhà quân sự ta đã biết chớp thời cơ có lợi chuyển sang giáng cho địch những đòn mãnh liệt, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta, tư tưởng, đường lối chung về chiến lược là đánh lâu dài, vì quân xâm lược thường mạnh hơn quân ta lúc đầu. Nhưng căn cứ vào các điều kiện chủ quan, khách quan khác nhau về các mặt của cuộc chiến tranh mà tình hình lâu dài có khác nhau. Cũng có cuộc chiến tranh, giành thắng lợi trong một thời gian tương đối ngắn.

—————————————————-

12,13. Việt sử thông giám cương mục, tập V, tr.34.
14. Thiên nam ngữ lục.
15. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố. Nhà xuất bản Mai Lĩnh, Hà Nội, 154, tr.531.

2. Trong nhiều cuộc chiến tranh, các nhà quân sự thời xưa đã biết khéo léo vận dụng hai cách đánh: đánh phân tán và đánh tập trung, tạo nên sức mạnh to lớn để đánh bại quân địch.

Biết kết hợp cách đánh nhỏ của dân chúng và các lực lượng vũ trang địa phương nhỏ bé với cách đánh tập trung lớn của quân đội triều đình là một sáng tạo quan trọng của Tổ tiên ta.

Trong tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta lực lượng vũ trang tập trung của ta bao giờ cũng kém xa địch về số lượng và ở một mức độ nhất định, cũng kém địch về trang bị kỹ thuật, vật chất, nhất là trong thời kỳ đầu của chiến tranh. Để đánh thắng một quân giặc mạnh hơn, ta không thể chỉ đánh bằng riêng các lực lượng vũ trang tập trung được, mà phải đánh bằng tất cả tinh thần và vật chất của dân tộc ta, của toàn thể nhân dân ta. Tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược đã thắng lợi trong lịch sử nước ta đều là những cuộc chiến tranh mà toàn thể dân tộc ta, toàn thể nhân dân ta gián tiếp và trực tiếp cùng các lực lượng vũ trang của mình đánh giặc.

Trong nhiều triều đại, tổ chức lực lượng vũ trang không phải chỉ có quân đội của triều đình. Tuy tên gọi khác nhau, cách tổ chức cũng có điều khác nhau, song thường có 3 cấp lực lượng rõ rệt: quân tập trung của triều đình gọi là du quân, đại quân; quân ở các địa phương (quân do các chính quyền địa phương tổ chức và quản lý hoặc quân của các vương hầu nhưng chịu sự chỉ huy của triều đình) tuỳ từng thời mà gọi là quân các lộ, quân các đạo; và dân binh còn gọi là thổ binh hoặc hương binh. Quân tập trung của triều đình thường làm nhiệm vụ cơ động trong cả nước. Quân ở các địa phương có trách nhiệm giữ các lộ, các đạo, các thành quan trọng, còn dân binh thì bảo vệ các thôn ấp.

Nhờ biết tổ chức lực lượng một cách rộng rãi và hợp lý như vậy, cho nên dân tộc ta, đã có thể thực hành vừa đánh phân tán, vừa đánh tập trung, vừa đánh nhỏ, vừa đánh lớn. Và chính nghệ thuật biết vận dụng khéo léo các hình thức đánh phân tán và tập trung như vậy, đã cho phép huy động được lực lượng to lớn của toàn dân và các lực lượng vũ trang ở các cấp để tiêu diệt địch. Cách đánh nhỏ, phân tán của dân chúng và quân đội, đã từng có một địa vị và tác dụng rất lớn trong lịch sử dân tộc ta. Triệu Quang Phục dùng cách đánh “đột xuất ra cướp lương thực, cầm cự lâu ngày, làm cho quân giặc mệt mỏi, trong 3, 4 năm không hề đối diện chiến đấu”(16) đã làm quân Lương vô cùng khốn đốn, sức cùng chí nản. Thời Trần, các đội dân binh cùng dân chúng đã làm quân Nguyên nhanh chóng mất sức tiến công. Thời Lê nghĩa quân Lam Sơn lúc lên phía bắc, thoắt quay về nam, khi xuất hiện ở đông, lúc đánh úp ở tây, nên với quân số ít, đã từng đánh tan nhiều cuộc tiến công càn quét có khi đông đến hàng chục vạn quân Minh.

Cách đánh lớn, tập trung của quân đội triều đình (quân chủ lực) đã từng lập nên những chiến thắng oanh liệt: Bạch Đằng, Chương Dương, Vạn Kiếp, Xương Giang, Ngọc Hồi, Đống Đa … Đáng chú ý là cách đánh tập trung của quân đội ta thời xưa cũng có đặc điểm rất Việt Nam, phù hợp với điều kiện đất không rộng, người không đông. Đó là những cách đánh mà nhà nước quân sự thời xưa gọi là “xuất kỳ bất ý”, là “công kỳ vô bị” là đánh bằng kỳ binh, phục binh, tức là những cách đánh không bộc lộ mục tiêu, không đối trận với địch, mà dựa vào điều kiện nhân dân ủng hộ mà phát huy đến độ cao tính bất ngờ, giáng những đòn rất mạnh, giải quyết trận đánh rất nhanh “sấm ran, chớp giật” như Nguyễn Trãi nói.

Trong triều đại, Tổ tiên ta đã nhiều lần vùng lên, bắt đầu khởi nghĩa ở một số địa phương, tiến hành đánh du kích, cuộc khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng nhằm lật đổ ách thống trị của nước ngoài, khôi phục quyền làm chủ của dân tộc. Về quân sự, ta đã từ đánh du kích, đánh nhỏ, tiến lên đánh tập trung với quy mô ngày càng lớn. Việc phát triển từ đánh du kích lên đánh tập trung đã cho phép dân tộc ta giành được thắng lợi to lớn và quyết định trong việc chiến tranh, giải phóng lâu dài. Cuộc chiến tranh của Triệu Quang Phục chống quân Lương đã chứng minh rõ ràng điều đó và cuộc chiến tranh giải phóng thời Lê có thể xem là một điển hình thành công của dân tộc ta trong lịch sử thời xưa về việc vận dụng khéo léo đánh du kích và đánh tập trung.

Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc, Tổ tiên ta đã nhiều lần biết kết hợp khéo léo đánh phân tán và đánh tập trung. Trong chiến tranh giải phóng, sau khi đã từ đánh phân tán mà phát triển lên đánh tập trung, Tổ tiên ta đã biết kết hợp hai cách đánh đó, nhờ đó mà phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân (thời Lê). Trong chiến tranh tự vệ có những lần dân ta dựa vào lực lượng quân đội đánh tập trung quy mô lớn, mà giành những thắng lợi vang dội, như Lý Thường Kiệt đánh phủ đầu mà phá kế hoạch xâm lược của nhà Tống; Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Tình hình đó không tách rời khỏi sự chỉ huy tài tình biết nhằm nơi địch sơ hở mà nhanh chóng giáng đòn mãnh liệt, quyết định, không tách rời khỏi sự ủng hộ to lớn nhiều mặt của nhân dân. Nhưng nhìn chung thì trước kẻ thù lớn mạnh đang xâm lược nước ta, việc kết hợp cách đánh của quân đội triều đình (quân chủ lực) với cách đánh nhỏ của quân đội của địa phương và của dân chúng, cho phép dân tộc ta phân tán, tiêu hao, làm suy yếu quân địch tạo ra điều kiện thuận lợi cho quân đội tập trung tiêu diệt quân địch nhờ đó mà nhiều lần chiến thắng oanh hệt. Nhiều triều đại đơn thuần dựa vào quân đội tập trung, nhất là khi lại phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược đã bị thất bại (An Dương Vương, Lý Phật Tử, Hồ Quý Ly).

Đưa đánh du kích lên tập trung, kết hợp đánh tập trung và đánh du kích, là một kinh nghiệm sáng tạo của dân tộc ta. Kinh nghiệm chiến tranh thắng bại của nhiều triều đại hoặc ngay trong bản thân một số triều đại, đã chứng minh tính chất quan trọng của sự kết hợp đó.

Sự nghiệp chống ngoại xâm của Lý Bôn (Lý Bí) đã để lại cho ta ba bài học lịch sử khác nhau: Bài học thành công lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa khôi phục nền độc lập; bài học thất bại gần mất hết nghiệp nước hhi lấy mạnh chọi mạnh theo chiến lược dốc túi đánh nhanh thắng nhanh chống lại quân phong kiên xâm lược Trần Bá Tiên (nhà Lương); sau đó phải lui quân về Hưng Hóa để tổ chức lại đội ngũ mưu tính cuộc kháng chiến lâu dài, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục chuyển sang không trực diện đánh ban ngày với địch mà đêm đêm bí mật tổ chức đánh úp (tập kích) tiêu diệt địch, lấy lương thực vũ khí của địch để đánh lâu dài đến khi nhà Lương bị quét sạch, đó là bài học thứ ba, bài học thành công.

———————————————–

16. Lĩnh nam trích quái, bản dịch, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr. 37. ——————————————————-

3. Tư tưởng chỉ dạo tác chiến về chiến lược chiến thuật của tổ tiên ta có nhiều điều rất tiến bộ.

a) Trong việc chỉ đạo chiến lược chiến thuật. Tổ tiên ta đã biểu lộ một tinh thần tích cực, chủ động tiến công rất mãnh liệt.

Trong chiến tranh tự vệ, tinh thần đó biểu hiện trong các hoạt động chiến lược của quân đội nhà Lý (Lý Thường Kiệt đánh phủ đầu phá các cuộc xâm lược của nhà Tống), quân đội nhà Trần (trong cả ba cuộc chiến tranh, nhất là trong các trận phản công chiến lược); và trong cuộc hành binh táo bạo và thần tốc đại phá quân Thanh của quân đội Tây Sơn thì tinh thần đó được phát huy đến độ cao.

“Ngồi đợi giặc đến, không bằng đánh trước làm nhụt nhuệ khí của gìặc”(17).

Trong chiến tranh giải phóng, tinh thần đó biểu hiện trong khắp các cuộc khởi nghĩa của dân tộc ta, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh thời Lê.

Tinh thần tích cực chủ động tiến công rất mãnh liệt đó không tách rời khỏi lòng yêu nước nồng nàn, chí kiên cường bất khuất của dân tộc ta.

“Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải luôn luôn chông giặc ngoại xâm đế bảo vệ độc lập, tự do, sự sống còn của mình, cho nên có tinh thần tụ vệ rất mạnh. Chính trên cơ sở của tinh thần tụ vệ mạnh mẽ đó đã nảy sinh ra cách đánh giặc của người Việt Nam. Không phải là ngẫu nhiên mà trong lịch sử nước ta, mỗi khi dân tộc ta vùng dậy chống ngoại xâm, là chỉ tiến công chừ không phòng ngư, tiến công kẻ xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc của mình. Tiến công là chiến lược, còn phòng ngự chỉ là sách lược”(18).

b) Về thực tế cũng như về lý luận, trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh tự vệ, nghệ thuật chỉ đạo tác chiến Tổ tiên ta đều chú trọng tránh chỗ mạnh của địch, giành chỗ lợi cho mình, lấy cái mạnh của mình tìm chỗ yếu của địch mà đánh. Do đó, sức mạnh của địch không dùng được, lực lượng lớn của địch không phát huy hết sức mạnh, không đạt được hiệu quả cao. Trái lại ta thì dùng mọi sức mạnh của ta một cách thích hợp, có thể tiến công tiêu diệt địch ở mọi nơi, mọi lúc với quy mô khác nhau.

Nói chung, Tổ tiên ta thừa nhận công thành là “hạ sách” và nhấn mạnh đánh bất ngờ, mai phục, đánh úp.

“Đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận, nhẹ nhàng như mưa rơi ở trên không xuồng, gây nên cuộc đời vô sự”.(19)

“Lấy yếu thắng mạnh, tiến công khi giặc không chuẩn bị, lấy ít đánh nhiều, thường mai phục, ra kỳ binh”.(20)

Trên thực tế chỉ đạo chiến lược chiến thuật, các nhà quân sự ta, biết cắt địch ra từng mảnh, tiêu diệt địch từng bộ phận, đánh bại địch từng bước. Trong dân gian từ xưa thường có câu “bẻ đũa không bẻ cả nắm”, “đánh rắn phải dập nát đầu”, những câu đó nói lên tư tưởng cắt địch ra từng mảnh, đánh vào những chỗ hiểm yếu nhất của địch để tiêu diệt chúng.

Quán triệt những tư tưởng trên, các nhà quân sự của ta thông thường biết:

Lợi dụng những sơ hở, những chỗ yếu của địch. Do nhận thức được địch có những chỗ yếu về nhiều mặt, nhất là những chỗ yếu trí mạng do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược đẻ ra. Các nhà quân sự thời xưa một mặt phát hiện những chỗ yếu của chúng để lợi dụng, mặt khác khoét sâu sơ hở và nhược điểm đó của địch rồi giáng những đòn mạnh mẽ.

“Đánh mà muốn lấy được phải đánh vào chỗ giặc không giữ, nếu quân địch lấy quân các nơi tăng cường cho Nghệ An, thành ta khó đánh, trái lại các nơi khác, thì địch sơ hở, chi bằng chi quân đi đánh các nơi khác, khiến Nghệ An bị hãm vào thế cô lập, tức khắc giặc phải hàng. Các bậc tướng giỏi đời xưa tránh chỗ thực, công chỗ hư…”(21)

“Binh đánh vào đâu như lấy đá gieo vào quả trứng. Phàm lấy sức nặng ngàn cân đè lên trứng chim, thì chưa hề có trứng nào không vỡ nát”(22).

“Nuôi uy chứa sức, đợi đánh tan viện binh thì thành phải hàng, làm một được hai”(23).

Cuộc tiến công Chương Dương, Tây Kết, trận đánh thuyền lương Trương Văn Hổ, cuộc tiến quân của Lê Lợi vào Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình-Thuận Hóa, cuộc hành binh táo bạo của Nguyễn Huệ ra Thăng Long đều là những trận chiến thắng nêu rõ sự lợi dụng khéo léo sơ hở và nhược điểm của địch của Tổ tiên ta.

Tạo nên sơ hở cho địch, làm cho địch bộc lộ chỗ yếu bằng nhiều biện pháp tích cực khác nhau, như nghi binh, tỏ ra yếu, che giấu ý định của mình, đưa địch vào những địa điểm bất lợi, v.v. Các nhà quân sự ta đã làm cho địch nhận định sai lầm, chủ quan, khinh thường đối phương, hành động sai lầm, do đó tự bộc lộ sơ hở, nhược điểm. Những cuộc xuất kích trên tuyến sông Cầu của Lý Thường Kiệt để tiêu hao liên tục đội kỵ binh thiện chiến của Quách Quỳ; Trần Quốc Tuấn kéo quân kỵ binh cơ động của quân Nguyên rời khỏi thành Thăng Long để tiêu diệt dọc đường; việc gửi thư cho Liễu Thăng trước khi viện binh Minh vượt biên giới; các trận đánh kéo địch vào trận địa mai phục Chi Lăng, v.v. Và một khi địch có sơ hở bộc lộ chỗ yếu, các nhà quân sự ta biết tập trung lực lượng bất ngờ giáng những đòn mãnh liệt địa tiêu diệt chúng.

Trong điều kiện nước ta là một nước đất không rộng, người không đông mà phải đánh những đạo quân xâm lược lớn mạnh, Tổ tiên ta đã biết huy động toàn dân cùng với lực lượng vũ trang tập trung đánh giặc, tạo nên một sức mạnh to lớn. Mặt khác muốn phát huy tác dụng to lớn của lực lượng vũ trang tập trung thường kém xa địch về số lượng, Tổ tiên ta đã có nghệ thuật biết dùng lực lượng vũ trang đó với một hiệu lực lớn nhất để đánh bại một kẻ địch đông hơn và thiện chiến. Tư tưởng chỉ đạo của nghệ thuật đó được Nguyễn Trãi nêu lên một cách xuất sắc: “Sức dùng một nửa mà công được gấp đôi “.(24)

Chính vì vậy mà nét sáng tạo trong nghệ thuật quân sự dân tộc của ta là không những Tổ tiên ta biết lấy nhiều đánh ít mà còn biết lấy ít đánh nhiều: khi cần thiết thì tập trung quân có số lượng lớn hơn địch để tìm diệt chúng; khi thì biết dùng những đạo quân có chất lượng cao, có sức chiến đấu lớn để tiêu diệt những đạo quân đông hơn của địch trong những thời cơ thuận lợi. Có thể nói rằng những chiến thắng oanh liệt nhất trong những cuộc chiến tranh thắng lợi đều là những trận lấy ít thắng nhiều: Vạn Kiếp, Chúc Động-Tốt Động, Chi Lăng-Xương Giang, Ngọc Hồi-Đống Đa.

Để đạt được yêu cầu đó, Tổ tiên ta đã rất chú trọng đến nhân tố chất lượng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. Nhiều nhà quân sự của ta ngày xưa xem nhân tố chính trị, tinh thần, đoàn kết nhất trí đồng cam cộng khổ cùng với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài giỏi, sự tinh nhuệ của quân đội, là những nhân tố rất cơ bản quyết định sức mạnh chiến đấu của quân đội. Trần Quốc Tuấn nói: “Binh quý về tinh, không quý về nhiều”(25).

Nguyễn Trãi đã đánh giá như sau về sức mạnh của quân đội nhà Hồ và nghĩa quân Lam Sơn:

“Quân mạnh hay yếu không cứ ở nhiều. Quân của nhà Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng, mà quân của tôi bất quá vài mươi vạn, nhưng ai cũng một lòng”(26).

Nguyễn Huệ thì nói: “Còn như quân lính thì cốt hòa thuận không cốt đông, cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”.

Trong khi Hồ Quý Ly luôn luôn lo lắng “làm thế nào để có trăm vạn quân thì địch nổi giặc Bắc” mà rút cuộc vẫn bại trận.

Để tăng sức mạnh của lực lượng vũ trang, Tổ tiên ta biết: “Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa rèn khí giới, luyện tập binh tượng, dạy bảo những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui, lại hun đúc bằng những điều nhân nghĩa, khiến ai ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng”. Cho nên Nguyễn Trãi nói: “Đem quân ấy ra đối phó với địch, thì kẻ nào theo ý hướng ta sẽ sống, kẻ nào trái ý hướng ta sẽ chết”.

Trái lại điều trên, nhà Hồ đặt trọng tâm việc nâng cao sức chiến đấu của quân đội vào đúc súng “thần công” đóng thuyền “cổ lâu’, tức là cải tiến vũ khí.

Thắng lợi của 4 cuộc chiến tranh và thất bại của nhà Hồ, những lời nói của những nhà quân sự đánh thắng và của Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, đã nêu lên khá rõ kinh nghiệm lịch sử của dân tộc ta: vũ khí và số lượng là quan trọng, nhưng quyết định là con người và chất lượng.

Tư tưởng tích cực tiến công, phát huy mọi chỗ mạnh của mình nhằm mọi chỗ yếu của địch mà đánh, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ, vừa đến lớn, đã được vận dụng trong thực tế hết sức cơ động, linh hoạt, mưu trí bằng nhiều cách đánh tài tình, sáng tạo, đánh trước mặt và đánh sau lưng, đánh phân tán và đánh tập trung, đánh bằng tiến công quân sự và bằng tiến công binh vận, đánh vào tất cả các mục tiêu, đánh bằng nhiều phép đánh độc đáo.

Những cách đánh thiên biến vạn hóa đó, là những cách đánh vượt ra ngoài cách đánh thông thường của các binh pháp cổ đại. Trên cơ sở của tinh thần anh dũng quả cảm đã sản sinh ra những cách đánh thông minh linh hoạt, phát huy được mọi tài năng, sở trường của ta, mà hạn chế được mọi khả năng, sở trường của địch. Quân kỵ binh Mông Cổ rất cơ động, giỏi đánh ngoài thành luỹ, trên đồng nội, đã từng phát huy đến cao độ sở trường của họ trên nhiều chiến trường. Nhưng, trước những cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta thời Trần, đã không thể phát huy được lối đánh sở trường đó, như Nguyên Sử đã thừa nhận, trên đất nước Đại Việt “quân và ngựa Mông Cổ đã không thi thố được tài năng nào”. Quân Minh thông thạo công thành và giữ thành, vẫn không thoát khỏi bị tiêu diệt hết đạo quân này đến đạo quân khác ngoài thành luỹ.

Những trận đánh trên các đường giao thông thủy bộ, đánh vào các căn cứ an toàn, đánh vào các cơ quan đầu não của địch vừa tiêu diệt sinh lực, vừa phá hủy phương tiện chiến tranh (xe, thuyền, vũ khí) và cơ sở vật chất khác (lương thực); những trận hạ thành bằng vây hãm quân sự kết hợp với tiến công binh vận, làm tan rã tổ chức và tinh thần của địch, những phép đánh như đục thuyền, dùng cọc gỗ và lợi dụng thủy triều để phá hủy quân địch, v.v. đều chứng tỏ dân tộc ta đã sáng tạo ra nhiều cách đánh phong phú, độc đáo kết hợp chặt chẽ anh dũng và thông minh, khiến cho quân và dân ta có thể giành và giữ quyền chủ động ở độ cao, đẩy địch lún sâu vào thế bị động chịu đòn. Những cách đánh cơ động mưu trí đó, không những đã không cho địch phát huy được sở trường của chúng mà còn buộc địch phải đánh theo cách đánh có lợi cho ta, phải phục tùng ý chí của quân và dân ta. Do đó, chúng đánh ta thì đánh không trúng, không tiêu diệt nổi quân ta; quân ta đánh thì đánh rất trúng, đánh tiêu diệt chúng. Các cách đánh phản công mãnh liệt của Trần Quốc Tuấn, các cách đánh mai phục bất ngờ của Lê Lợi, cách hành binh thần tốc, táo bạo đánh úp của Nguyễn Huệ là những cách đánh chứng tỏ địch không cách nào đối phó nổi.

Sử thân Ngô Sĩ Liên đã nói như sau về trận đánh của Lý Thường Kiệt: “Hơn mười vạn quân hoành hành đi sâu vào nước người, đánh tan quân 3 châu gần như dễ bẻ cành khô; khi ở đấy thì không ai dám đương đầu, lúc rút về thì không ai dám theo sau”(27). Trong Hoàng Lê nhất thống chí có nêu rõ nhận định của địch đối với nghĩa quân Tây Sơn là ẩn hiện như thần, “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”.

Nhờ sự chỉ đạo chiến tranh tài tình, nhờ tư tưởng chiến lược chiến thuật đúng đắn, cộng với chất lượng cao của quân đội và nhiều trường hợp biết dựa vào dân, Tổ tiên ta đã nhiều phen đánh bại, thậm chí hoàn toàn tiêu diệt những đội quân xâm lược về số lượng đông hơn quân đội tập trung của ta, nhiều khi đến mấy lần.

——————————————————–

17. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, bản dịch, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr. 30.
18. Lê Duẩn, Thanh niên trong lực lượng vũ trang hãy vươn lên hơn nữa phấn đấu cho lý tưởng cách mạng, đì đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1969, tr. 30.
19. Trần Quốc Tuấn, Binh thưyếu lược.
20. Nguyễn Trãi, Bình ngô đại cáo. Chiến thuật cổ đại thường chia ra, chinh và kỳ: bộ đội đánh theo chính là chính binh, đánh theo kỳ, là kỳ binh: đánh trước mặt địch, đánh dàn trận với địch, đánh theo cách đánh thông thường là đánh theo chính, đánh sau lưng địch, đánh bất ngờ, đánh theo cách đánh đặc biệt là đánh theo kỳ. Phối hợp khéo léo chính và kỳ, thay đổi khéo léo chính và kỳ là một yêu cầu trong chỉ huy quân đội thời xưa.
21, 23. Nguyễn Trãi. Lam Sơn thực lục.
22. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tài liệu đã dẫn, tr. 56.
24. Nguyễn Trãi. Lam Sơn thực lục.
25,26. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tr. 51, 57.
27. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch. Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1961, tập IV, tr. 195.

——————————————————————————————————–

B – ĐỊCH VẬN

Đi đôi với việc phát huy những chỗ mạnh của mình về mặt quân sự, Tổ tiên ta đã biết phát huy cao độ yếu tố chính nghĩa của cuộc chiến tranh đang tiến hành, để đánh vào kẻ xâm lược phi nghĩa. Tiêu biểu nhất là cuộc chiến tranh đời Lê; Nguyễn Trãi đã đặt vấn đề địch vận lên một vị trí rất cao, tiến hành rất kiên nhẫn và có hệ thống chiến lược “đánh vào lòng người” như đã nêu lên trong “Bình Ngô sách” từ ngày đầu tham gia khởi nghĩa Lam Sơn.

Xuất phát từ tư tưởng “lấy đại nghĩa thắng hung tàn” và nhận rõ tác dụng quyết định của “lòng người” trong chiến tranh, các nhà quân sự thời Lê hiểu rằng, một mặt phải đánh thật mạnh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch thì mới làm địch suy yếu và mau suy sụp về tinh thần; một mặt khác khoét sâu chủ yếu trí mạng về tinh thần của quân đội xâm lược chiến đấu xa nhà, xa nước đứng trước cả một dân tộc đang chống lại. Phối hợp hai mặt tiến công đó, vừa đánh tiêu diệt lực lượng vật chất của địch vừa tiến công vào tinh thần chiến đấu của chúng, Tổ tiên ta dã buộc hàng chục vạn tên địch phải hạ vũ khí xin hàng, làm tan rã về tổ chức và tinh thần cả một quân đội xâm lược lớn mạnh. Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trài tổng kết:

“Bỉ chí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong.
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất”
(28).

Nghĩa là: địch đã chí cùng lực kiệt bó tay chờ chết, ta tìm cách đánh vào lòng người, không đánh trận mà giặc phải khuất phục. Ở đây nổi bật lên cái ý, dùng chính nghĩa sáng tỏ để đánh địch.

Những văn kiện địch vận của Nguyễn Trài có sức thuyết phục mạnh mẽ nêu bật tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng của dân tộc ta và tính chất phi chính nghĩa trong chiến tranh xâm lược của nhà Minh, nêu rõ sức mạnh đoàn kết của quân và dân ta và mâu thuẫn xâu xé nội bộ địch nhằm mục tiêu làm tan rã tinh thần chiến đấu của chúng, đưa chúng đến chỗ hàng phục ta, trong điều kiện bị hãm vào thế nguy khốn về quân sự. Đánh bằng quân sự càng mạnh, quy mô càng lớn, thì đánh bằng binh vận cũng ngày càng mạnh, với quy mô càng lớn.

Với lý lẽ sáng ngời trên cơ sở của sự thật, những văn kiện địch vận đó đã đi sát các đối tượng vận động (quân Minh và quân ngụy), đi sát tình huống chiến lược, chiến thuật ta, vừa nêu lên tinh thần khó khăn, tuyệt vọng, thất bại của địch vừa chỉ ra lối thoát cho chúng, và khẳng định ý chí kiên quyết tiêu diệt địch của quân và dân ta, lại vừa nói rõ chính sách khoan hồng của dân tộc ta đối với tù, hàng binh.

Trong thư gửi Phương Chính, một tướng nhà Minh, Nguyễn Trãi vạch ra như sau: “Nước người nhân dịp nhà Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội (ý nói nhà Minh mượn tiếng thương dân sống khổ mà đánh kẻ có tội để cứu dân-T.G), kỳ thực là làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột dân ta, thuế nặng, hình nhiều, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên sống. Nhân nghĩa lại làm thế ư? Nay ở nước người, dân oán, thần giận, kế tiếp có đại tang, thế mà đã không biết tự xét lỗi mình, lại còn cùng binh độc vũ (ý nói dùng vũ lực, đánh nhau không thôi-T.G), ham thích xâm lược nơi xa, khiến cho sĩ tốt phơi thây, nhân dân lầm bụi”(29).

Rồi ông chỉ rõ cho tướng sĩ nhà Minh:

“Kế của ngài ngày nay không gì bằng cởi giáp nghỉ binh, ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thượng sách. Thế tuy là may cho bọn tôi cùng ngài, mà cũng là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy”(30).

Khi gần 10 vạn quân Minh bị vây khốn trong các thành, tổng binh Minh là Vương Thông chờ mong viện binh, hy vọng được giải vây rồi phản công tiêu diệt nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã phân tích như sau:

“Trước đây lòng mưu giả trá, mặt thác giảng hòa, rồi cứ đào hào đắp luỹ, ngồi đợi viện…Hiện nay phương bắc có kẻ địch Thiện Nguyên (một tướng thuộc dòng dõi nhà Nguyên, chiêm giữ miền Bắc Trung Quốc, vẫn đang chống lại nhà Minh-T.G), trong nước có mối lo các xứ Tầm Châu (chỉ khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc ở Quảng Tây chống lại nhà Minh-T.G), một khu Giang Tả (nay thuộc Giang Tô, Trung Quốc-T.G) không tự giữ xong, huống còn mưu toan cướp nước khác ư? Các người không hiểu sự thế bị người đánh thua, 1ại còn chực dựa uy Trương Phụ (lúc đó Vương Thông thường phao tin Trương Phụ là tướng tài đã từng thắng nhà Hồ sẽ sang, định dựa vào oai phong của Trương Phụ để uy hiếp nghĩa quân ta-T.G), thế là đại trượng phu chăng?…Sự thế ngày nay, dẫu cho thượng vị (chỉ vua Minh-T.G) có đem quân đến nữa cũng chỉ chóng chết mà thôi, huống là Trương Phụ tự đến nạp xác thì sao đáng nói…Nay sức hết kế cùng, quân nhọc lính mệt, trong thiếu lương thực ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, đó không phải là như thịt trên thớt, cá trong nồi ư?”(31)

Cuối cùng ông khái quát như sau: “Nay tính kế các ông, xét có 6 điều phải thua:

– Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.

– Xưa Đường Thái bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân nhà vua đóng giữ, nếu viện binh đến, thì tất cả phải thua; viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.

– Ở nước các ông, quân mạnh ngựa tốt, nay sống cả ở miền Bắc đề phòng trị quân Nguyên không dõi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.

– Động dụng can qua, hàng năm đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.

– Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình thêm biến. Đó là điều phải thua thứ năm.

– Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới cùng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt kham khổ, tự chuốc lấy bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu.

Nay giữ cái thành cỏn con để chờ 6 điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông lắm. Cổ ngữ có câu: “Nước xa không thể cứu được lửa gần”, giờ viện binh có đền cũng có ích gì cho sự bại vong?”

Đối với tướng sỹ ngụy, Nguyễn Trài khêu gợi tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc: “Người xưa có câu nói: “Quạ đi lại về quê cũ cáo chết quay đầu về núi”, cầm thú còn thế, huống nữa là người? Các người vôn đều là người dân Tây Việt dòng dõi nhà quan. Trước nhân nhà Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn, các người có người thân bị hãm ở tặc đình, có người thì danh bị buộc ở ngụy chức, đó là thiên không dừng được nào phải do ở bản tâm đâu…Bọn các người nếu biết sửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch theo thuận, hoặc ở làm nội ứng hoặc ra để cũng đầu hàng thì không những rửa mối hổ thẹn ngày trước mà cũng được phần soi xét về sau. Ta không nói lời lại ăn lời, nếu các ngươi lại còn tiếc tham ngụy chức, chống cự vương sư thì khi hãm thành tội các ngươi tất nặng hơn giặc Ngô đấy”(32).

Chính sách đối với quân giặc ra hàng cũng đã được quy định rõ:

“Tướng giặc đã hàng mảy may cũng không được xâm phạm. Bất cứ tội to tội nhỏ đều xóa cho hết”(33).

“Quan quân đã hàng, vợ con quyến thuộc cùng là tài vật đều bảo toàn hết cả, không chút thiệt hại”(34).

Đối với tướng sỹ ngụy đã ra hàng:

“Ra ngoài thành cùng ta hòa thân, thì ta sẽ coi các ngươi như tình anh em ruột thịt, chẳng những là bảo đảm tính mạng vợ con mà thôi…”(35)

Còn đối với tướng sĩ nhà Minh thì:

“Nếu muốn rút quân về nước ta sẽ sửa sang cầu cống, chuẩn bị thuyền bè, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn, bảo đảm đưa khỏi ra bờ cõi không phải lo gì”(36).

Việc kết hợp chặt chẽ tác chiến và địch vận đã làm cho Tổ tiên ta phát huy được sức mạnh chính trị của mình, tiết kiệm được xương máu, giành được thắng lợi to lớn trong chiến tranh.

Kết quả là “thành giặc các nơi, mũi nhọn không dính máu mà tự mở”. Hàng vạn quân địch ra hàng, rất nhiều người đã tham gia hàng ngũ nghĩa quân, giúp cho quân đội phát triển nhanh. Hàng vạn quân Minh đã mở cửa thành, dâng thành cho nghĩa quân, có những tướng lĩnh đã đứng hẳn về phía chính nghĩa giúp quân và dân ta trong công tác vận động thuyết phục các tướng lĩnh Minh khác cũng như giúp nghĩa quân tin tức quân sự và cách chế tạo chiến cụ để đánh bại quân Minh.

Ở những thời khác, tuy công tác địch vận chưa được tiến hành một cách đầy đủ như thời Lê, nhưng ít nhiều cũng đã có những tác dụng nhất định trong việc làm tan rã tinh thần chiến đấu của quân xâm lược (thời Lý, Trần và Nguyễn Huệ, v.v.).

Trước Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cũng đã có chủ trương đánh bằng địch vận-nhưng chưa coi trọng như Nguyễn Trãi, chưa thành một vấn đề chiến lược như trong thời Nguyễn Trãi. Trần Hưng Đạo cũng đã biết lợi dụng mâu thuẫn giữa người Hán và người Mông Cổ trong quân Nguyên mà lôi kéo những tướng sỹ người dân tộc Hán trong quân đội nhà Nguyên.

Một vụ điển hình là vụ Triệu Trung: Một tướng người Hán trong quân Nguyên đã ra hàng quân ta và tham gia đạo quân Trần Nhật Duật, đã góp phần đánh tan đoàn quân tiên phong của đạo quân Toa Đô tại trận Hàm Tử năm 1285.

——————————————————

28. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tr. 70.
29. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tr. 22.
30. Nguyễn Trãi.Tài liệu đã dẫn, tr. 20.
31. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tr. 48, 49.
32. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh lệnh tập, tr. 4-42.
33, 34. Nguyễn Trãi. Lam Sơn thực lục.
35, 36. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, tr. 43, 50.

——————————————————————————————————-

C – ĐẤU TRANH VŨ TRANG VÀ ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO

Để dựng nước và giữ nước, để giành và giữ nền độc lập dân tộc, nhìn chung cả quá trình mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta trước kẻ thù hung bạo, dùng vũ lực áp đặt ách thống trị, đã không đi chệch con đường đúng đắn duy nhất đã chọn: con đường cầm vũ khí đấu tranh quyết hệt một mất một còn với địch. Chưa đạt tới mục đích độc lập dân tộc, chưa thực hiện quyền làm chủ hoàn toàn đất nước mình thì Tổ tiên ta quyết nắm chắc vũ khí trong tay, quyết đánh quyết thắng. Chính đi theo con đường đó, mà Tổ tiên ta đã sáng tạo một nghệ thuật chỉ đạo đúng đắn, một nghệ thuật biết khởi sự và giỏi tiến hành chiến tranh đồng thời biết kết thúc chiến tranh và giữ vững thắng lợi của chiến tranh đó một cách có lợi nhất cho đất nước, dân tộc, một khi mà các mục tiêu cơ bản của chiến tranh đã đạt được. Đó là nghệ thuật giành, giữ vững, củng cố quyền làm chủ đất nước của một dân tộc kiên cường bất khuất, người không đông, quân đội không nhiều, đất nước không rộng, mà phải chiến thắng những quân đội xâm lược của một nước phong kiến lớn mạnh.

1. Trong các cuộc chiến tranh, dân tộc ta đã kiên quyết đánh những đòn rất mạnh, tiêu diệt những lực lượng rất quan trọng của địch, thậm chí nhiều khi tiêu diệt toàn bộ đoàn quân xâm lược trên đất nước ta, đánh bại ý chí xâm lược của chúng, do đó mà quét sạch quân địch khỏi bờ cõi, giành lấy độc lập dân tộc.

Thường xuyên đương đầu với một nước phong kiến lớn mạnh xâm lược, Tổ tiên ta đã chiến đấu rất quyết liệt, đánh bại ý chí xâm lược của chúng bằng cách liên tục và triệt để tiêu diệt địch trên đất nước ta, khiến cho kẻ địch lớn mạnh phải chịu khuất phục, tuy còn khả năng nhưng ý chí xâm lược đã tan rã khiến chúng không những bọn quan quân, tướng sĩ đã từng tiến vào nước ta khiếp vía, run sợ, mà ngay cả bọn cầm đầu triều đình ở chính quốc cũng phải chịu thua.

Hai lần quân Tống xâm lược là hai lần quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt đánh cho chúng không còn chỗ đứng chân trên đất nước ta; chỉ đến mức đó thì nhà Tống mới chịu thua hẳn. Ba lần quân và dân ta thời Trần đã tiêu diệt trên dưới chín mươi vạn quân Nguyên thì đế quốc Đại Nguyên mới chịu “bãi binh”. Phải sau 10 năm đọ sức quyết liệt với nhà Minh, tiêu diệt và làm tan rã trên nửa triệu quân Minh, vua Minh mới buộc phải ra lệnh “rút quân về nước”. Nguyễn Huệ chỉ có tiêu diệt trong một trận thần tốc hai mươi vạn quân Thanh, mới khiến cho triều đình Thanh vứt bỏ mộng tưởng thống trị nước ta.

Để đạt tới mục tiêu quét sạch địch ra khỏi nước ta, đập tan ý chí xâm lược của chúng, Tổ tiên ta tùy hoàn cảnh cụ thể đã dùng hai cách: hoặc là tiêu diệt toàn bộ quân địch, thu hồi toàn bộ đất đai của ta (Trần, Nguyễn Huệ); hoặc là trong những điều kiện nhất định, tiêu diệt đại bộ phận, đặc biệt là tiêu diệt những đạo quân chủ lực tinh nhuệ nhất, xương sống của đoàn quân xâm lược, đặt bộ phận còn lại vào nguy cơ bị tiêu diệt, rồi hạ tối hậu thư cho chúng phải nhanh chóng lui quân (Lý, Lê); địch rút đến đâu ta tiến đến đó (Lý, Lê); đối với bọn ngoan cố chống cự lại thì quyết tiêu diệt, cho đến khi thu hồi toàn bộ đất đai (Lý).

“Chúng đã sợ chết xin hòa, thực thà cầu sống;
Ta muốn toàn quân làm cốt, ngơi nghỉ dừng chân.”

Điều đáng chú ý là, khi cho phép một bộ phận địch còn lại rút khỏi nước ta, Tổ tiên ta không những nhằm mục tiêu trước mắt của cuộc chiến tranh đang tiến hành, mà còn nhằm vào lợi ích lâu dài của dân tộc, như Nguyễn Trãi đã viết:

“Thần vũ không giết, đức lớn hiếu sinh. Nghĩ đến kế lâu dài của nước nhà, tha ngay 10 vạn hàng binh”.

2. Tổ tiên ta đã biết khéo léo kết hợp đấu tranh vũ trang rất kiên quyết với đấu tranh ngoại giao rất mềm dẻo sau khi đã giành được thắng lợi to lớn quyết định trên chiến trường, sau khi quân địch bị thất bại nặng nề mà thực chịu thua, nhằm củng cố và mở rộng thành quả đấu tranh.

Trong những cuộc chiến tranh thắng lợi, vấn đề “đánh” và “đàm” đã được Tổ tiên ta nhận thức một cách đúng đắn và giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo. Luôn sẵn sàng đánh, đánh đến thắng lợi hoàn toàn, đánh hết trận này, đánh xong với kẻ thù này là chuẩn bị đánh trận khác, đánh kẻ thù khác nếu chúng dám xâm lược. Đó là quan điểm chiến lược nhất quán của dân tộc ta. Mặt khác Tổ tiên ta cũng tỏ ra mình hiểu người, biết dùng biện pháp đàm phán kết hợp được tính cứng rắn về nguyên tắc và tính mềm dẻo về sách lược để củng cố và mở rộng thành quả của đấu tranh vũ trang.

Có đánh có đàm, trên cơ sở đánh thắng oanh liệt mà chủ động đẩy mạnh hoạt động ngoại giao khôn khéo, điều đó đã được thể hiện trong những cuộc chiến đấu nói trên. Kinh nghiệm lịch sử của Tổ tiên chứng tỏ phải có những chiến thắng oanh liệt, những trận đánh tiêu diệt lớn thật vang dội, cổ vũ đến cao độ nhiệt tình yêu nước của nhân dân ta, nâng cao tin tưởng thắng lợi hoàn toàn của quân và dân ta khiến toàn quân toàn dân dốc sức đánh bại hoàn toàn quân địch, mà địch thì suy sụp tinh thần chiến đấu, không thể không chịu thua trước thảm họa quân sự của chúng, đó là thời cơ có lợi để Tổ tiên ta tiến hành ngoại giao với địch. Tuỳ theo so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng triều đại, Tổ tiên ta đã biết áp dụng hai cách vừa đánh vừa đàm và đánh thắng rồi đàm.

Sau chiến thắng của trận phản công trên sông Cầu tiêu diệt phần lớn chủ lực tinh nhuệ của quân Tống, tuy quân địch còn trên đất nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động phái người sang gặp tướng chỉ huy quân xâm lược để đặt điều kiện lập lại hòa bình giữa hai nước: Quân Tống rút lui toàn bộ đất nước ta. Quách Quỳ, tướng chỉ huy quân Tống, lúc đó chỉ có thể chọn một trong hai con đường: hoặc tiếp tục đánh thì nhất định bị tiêu diệt hoàn toàn, hoặc nhận điều kiện rút quân thì bảo tồn được bộ phận sinh lực còn lại, giữ được tính mạng của bản thân. Trong điều kiện nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn là rõ ràng, khẩn cấp, Quách Quỳ đã chọn con đường thứ hai, lập tức rút quân, ngay trước khi triều đình Tống ra lệnh bãi binh. Thời Lê, trong mười năm chiến tranh giải phóng, đã có nhiều lần vừa đánh vừa đàm như vậy. Như sau lần đánh bại cuộc tiến công càn quét của 10 vạn quân Minh ở vùng huyện Khôi nhằm tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng chuẩn bị tiếp tục đánh, hai bên đã đàm phán đi tới tạm hòa hoãn trong hai năm. Sau chiến thắng vang dội Chi Lăng-Xương Giang, đập tan cố gắng cao nhất cuối cùng của nhà Minh, Lê Lợi-Nguyễn Trãi lại tiếp tục đàm phán với Vương Thông, buộc 10 vạn quân địch còn lại phải đầu hàng và được phép rút quân về nước, trước khi vua Minh có lệnh bãi binh.

Còn thời Trần, thời Nguyễn Huệ, chỉ sau khi đã giành thắng lợi hoàn toàn bằng những chiến công hiển hách, tiêu diệt gần hoàn toàn quân xâm lược, nhà Trần và Nguyễn Huệ mới chủ động tiến hành hoạt động ngoại giao với các triều đình Nguyên và Thanh.

Như trên đã nêu, dù vừa đánh vừa đàm, hay là đánh rồi đàm, Tổ tiên ta tỏ ra nắm vững quan hệ giữa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường nước ta và củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao. Đó là biểu hiện của sự kết hợp đúng đắn giữa ý chí kiên cường bất khuất và nhãn quan trông xa thấy rộng có lòng căm thù sâu sắc quân địch, lại biết đánh giá đúng sức mình, sức người. Nhà sử học Phan Huy Chú đã bình luận như sau mối quan hệ giữa chiến thắng quyết định và hoạt động ngoại giao thời Lý:

“Việc biên giới ở đời Lý được trả lại đất rất nhiều.

Bởi vì, trước thì có oai thắng trận, người trung châu (ý chỉ đoàn quân Tống xâm lược nước ta-T.G) hoảng sợ, đủ làm cho nhà Tống phải phục, sau thì sứ thần bàn bạc, lời lẽ thung dung càng thêm khéo léo. Cho nên cần gì được nấy, làm cho lời tranh biện của người phương Bắc phải khuất, mà thế lực của Nam Giao được mạnh. Xem đó cũng có thể biệt qua thế cường thịnh của thời bấy giờ”(37)(chúng tôi nhấn mạnh-T.G).

Cho nên biện pháp ngoại giao không phải được thực hiện với tinh thần sợ hãi quân địch lớn mạnh hơn mình, mà với thế của kẻ chiến thắng, của một nước đã đánh bại quân thù xâm lược.

Tinh thần trên thể hiện rõ trong lời Nguyễn Trãi nói với Lê Lợi và các tướng lĩnh của nghĩa quân sau khi tiêu diệt viện binh địch tại Chi Lăng-Xương Giang: “Tình hình quân giặc trong lúc này, mình phá vào sào huyệt ăn gan uống máu để rửa mối thù sâu không phải là một sự khó khăn. Nhưng thần trộm e, như vậy sẽ kết mối thù với triều Minh quá sâu. Vì sự trả thù, vì sự vớt lấy thể diện của một nước lớn, Minh chúa tất lại phái binh sang, như thế cái vạ binh đao biết đến bao giờ cho dứt được. Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ thù lâm vào thế cùng mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước”(38).

Với nội dung bảo đảm giành độc lập hoàn toàn của dân tộc, hoạt động ngoại giao đó đã được tiến hành dưới nhiều hình thức nhằm buộc địch chịu thua mà không “mất mặt”, như tạo điều kiện cho quân bại trận rút về, chịu phong vương, nhận triều cống, nhận trao trả tù binh, v.v. để đặt lại quan hệ bình thường giữa hai nước.

Trên cơ sở của cái “oai thắng trận”, cuộc đấu tranh về mặt ngoại giao giữa ta và địch vẫn không kém phần gay go quyết liệt có lúc rất căng thẳng. Như nhà Trần đã kiên quyết bác bỏ toàn bộ 6 điều của nhà Nguyên, tuy rằng trong cuộc đấu tranh ngoại giao đó, phía bên Nguyên đã rút lui từng bước rút bỏ một số điều kiện, cho đến lúc cuồl cùng phải bỏ hẳn các điều kiện xâm phạm chủ quyền nước ta.

Trong nhiều trường hợp (thời Lý – Tây Sơn) cuộc đấu tranh ngoại giao mang tính chất một cuộc tiến công tích cực để khuếch trương chiến quả của đấu tranh vũ trang, tiêu biểu là cuộc đấu tranh thời Lý buộc Tống thừa nhận Đại Việt là một nước riêng biệt, chứ không phải làm một quận, cũng không phải là một chư hầu của Tống; thừa nhận vua nước Đại Việt là quốc vương chứ không phải là “Giao Chỉ quận vương”.

Điều đáng chú ý là Tổ tiên ta không hề có ảo tưởng đối với “thiện chí” của quân xâm lược, chưa triệt để đánh bại chúng thì chưa có thể có độc lập dân tộc. Sau năm năm chiến tranh, Lê Lợi, tạm hòa hoãn với quân Minh chỉ là để chuẩn bị tiếp tục chiến đấu quyết liệt hơn. Đến năm thứ mười của cuộc chiến tranh, khi 8 vạn quân của Thôi Tụ, Hoàng Phúc bị quân ta vây hãm ở Xương Giang có ý trá hàng, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đã không chấp nhận mà kiên quyết tiêu diệt chúng toàn bộ. Có như vậy mới có điều kiện buộc quân Vương Thông ở Đông Quan phải thực sự đầu hàng. Các triều đại chỉ đặt quan hệ bình thường với quân địch sau khi đã hoàn toàn đánh bại các cuộc xâm lược của chúng.

———————————————–

37. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Bang giao chí, bản dịch, tập IV, tr. 196.
38. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn trích dẫn trong Khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào giải phóng đất nước vào đầu thế kỷ XV. Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội, 1969, tr. 240. ——————————————————————————————————-

NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN TRANH

Trong chiến tranh, đường lối chính trị và quân sự là rất cơ bản; nó quyết định việc chỉ đạo chiến tranh và giành thắng lợi trong chiến tranh.

Để thực hiện đường lối, chủ trương chiến tranh, cần có sự chỉ đạo cụ thể về phương pháp và các cách thức để tiến hành chiến tranh. Đó là sự chỉ đạo về nguyên tắc thực hành chiến lược.

Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta, sự chỉ đạo về nguyên tắc chiến lược-những vấn đề cụ thể về chiến lược-có rất nhiều cái hay và rất phong phú. Đi sâu, nghiên cứu để tổng hợp, phân tích các loại kinh nghiệm vô cùng phong phú, quý báu của lịch sử chiến tranh là một điều cần thiết.

1. VẤN ĐỀ TIẾN CÔNG VÀ PHẢN CÔNG

Tiến công và phản công là vấn đề chủ chốt trong chiến tranh. Vì chỉ có tiến công và phản công mới giành được thắng lợi trong chiến tranh. Nhưng tiến công chiến lược và phản công chiến lược như thế nào? Yêu cầu phải đạt được những gì? Lúc nào, thời cơ nào thì thực hành tiến công và phản công chiến lược? Tiến công và phản công chiến lược lần lượt trên từng hướng chiến lược hay đồng thời trên toàn tuyến? Đó là một nghệ thuật trong chỉ đạo chiến tranh.

Nghiên cứu vấn đề này, cần nắm vững một điểm cơ bản có tính chất bản chất là sự so sánh lực lượng và so sánh về thế và lực của hai bên. Trên cơ sở đó mà nghiên cứu các điều kiện cụ thể của mỗi cuộc chiến tranh mà vận dụng cho thích hợp.

Bộ chỉ huy chiến tranh phải căn cứ vào tình hình so sánh lực lượng, vào thế và lực giữa hai bên địch, ta trên chiến trường và của cả hai quốc gia mà quyết định một cách linh hoạt và sáng tạo.

Lý Thường Kiệt có thể phản công ngay lập tức ở trên hướng tiến công chủ yếu của địch, đánh ngay vào đạo quân chủ yếu của địch đang thực hành tiến công, là do tình hình so sánh lực lượng giữa hai bên, là do thế và lực giữa hai bên không chênh lệch nhau. Ngoài vấn đề thế và lực ra thì trình độ tác chiến của quân đội và nghệ thuật chỉ đạo của bộ chỉ huy cũng rất quan trọng. Đó là tính năng động chủ quan trong lãnh đạo, chỉ huy và hành động của cán bộ chỉ huy và của chiến sĩ. Quân đội nhà Lý là một quân đội thiện chiến, đã được rèn luyện trong chiến tranh nhiều năm và thường đánh thắng trận. Lý Thường Kiệt lại là một nhà chỉ huy thao lược có ý chí, có quyết tâm và có tài.

Về nhân dân và tình hình xã hội thì được phát triển và vững mạnh trong một nước độc lập; nhân dân hăng hái, đoàn kết, quyết tâm đánh giặc, giữ nước.

Trong khi đó, bên nhà Tống thì đang có nguy cơ bị xâm lược ở phía bắc. Trước và sau khi quân Tống đánh nước ta thì các nước Liêu, Hạ, Kim đều có đánh Tống (1004 Liêu đánh Tống, 1038 Tây Hạ đánh Tống, 1125 Kim đánh Tống). Về nội bộ thì triều đình nhà Tống có nhiều mâu thuẫn, chém giết lẫn nhau giữa phái Vương An Thạch và Lã Huệ Khanh: nền chính trị hủ bại suy đồi, nhân dân có nhiều oán ghét.

Trần Hưng Đạo khi phân tích tình hình thời đại đó cũng đã nói là lúc này nhà Lý có thế lực mạnh (Trần Quốc Tuấn trả lời nhà vua khi bị ốm).

Do sự so sánh lực lượng cụ thể giữa hai bên ở trên chiến trường, và tình hình chính trị, kinh tế, quân sự của hai quốc gia cộng với trình độ tác chiến của hai quân đội, sự chỉ huy của hai bộ chỉ huy mà xem xét điều kiện và thời cơ phản công.

Lý Thường Kiệt thực hành phản công sớm và thành công, nhanh chóng giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh trong vài ba tháng là do đã có những điều kiện cụ thể, những nhân tố thắng lợi nhanh của cuộc chiến tranh đó.

Đến thời đại Trần Hưng Đạo, việc thực hành phản công chiến lược có khác với Lý Thường Kiệt. Đó là do điều kiện của cuộc chiến tranh của thời nhà Trần có khác với thời nhà Lý.

Một điều kiện giống nhau là nhà Lý và nhà Trần đều đã là một nhà nước độc lập, có nhân dân đoàn kết quyết tâm đánh giặc giữ nước. Nền kinh tế đã được tổ chức và phát triển. Nền chính trị cũng được tương đối ổn định. Quân đội đã được tổ chức, được huấn luyện tinh nhuệ, đã thành một quân đội chính quy của một nhà nước. Điều kiện khác nhau là đối tượng chiến tranh không giống nhau. Quân nhà Nguyên mạnh hơn quân nhà Tống.

Trước một quân địch mạnh như thế, Trần Hưng Đạo đã không thể phản công nhanh và sớm như Lý Thường Kiệt được. Ông phải rút lui từng bước, xoay chuyển thế trận, nhử địch vào sâu, phân tán quân địch, làm cho địch bị tiêu hao, mệt mỏi, tạo điều kiện để tiêu diệt từng bộ phận quân địch, dần dần thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo ra thế lợi thế mạnh cho ta, đưa địch vào thế bất lợi, thế yếu, rồi mới thực hành phản công, tiến hành tiêu diệt chiến lược và quyết chiến chiến lược đi đến giành thắng lợi quyết định và thắng lợi hoàn toàn. Trần Hưng Đạo đã đề ra phương châm lấy “ngắn trị dài”, “lấy nhàn trị nhọc”.

Trần Hưng Đạo phản công chậm hơn Lý Thường Kiệt mấy tháng, nhìn chung thì cũng là nhanh. Lý Thường Kiệt phản công và giành thắng lợi trong vài tháng. Trần Hưng Đạo phản công và giành thắng lợi trong 6-7 tháng.

Đến Quang Trung thì cuộc phản công lại sớm hơn và giành thắng lợi nhanh hơn. Khoảng 2 tháng, Quang Trung đã giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Cuộc phản công chính vào Thăng Long giành thắng lợi quyết định thì chỉ khoảng một tuần lễ.

So sánh tình hình và lực lượng hai bên thì quân của Quang Trung là một đội quân mạnh, rất tinh nhuệ, đã đánh trăm trận trăm thắng, trình độ đánh công thành giỏi, nghệ thuật đột phá chiến dịch và bao vây vu hồi chiến dịch cao. Nhân dân đoàn kết, quyết tâm, được rèn luyện và có kinh nghiệm, truyền thống đấu tranh vũ trang.

Về quân nhà Thanh là một đội quân xâm lược, tinh thần kém và các mặt đều kém hơn đạo quân chủ lực của Quang Trung. Về triều đình nhà Thanh thì ngày càng suy yếu. Đối ngoại thì có nhiều cuộc xung đột, chiến tranh với các nước láng giềng. Trong nước thì nhân dân có nhiều bất mãn. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên. Từ đời Càn Long thứ 35 đến đời Quang Tự thứ 14 (1721-1888) có tới hàng vài chục cuộc khởi nghĩa.

Trong điều kiện nhà nước và quân đội của hai bên như thế nên Quang Trung đã thực hành phản công sớm và giành thắng lợi nhanh chóng.

Trong lịch sử chiến tranh nước ta thì đây là một cuộc phản công mạnh nhất, nhanh nhất, giành thắng lợi nhanh nhất và rất oanh liệt.

Bên cạnh những cuộc phản công sớm và giành thắng lợi nhanh thì trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta cũng có những cuộc phản công chậm, kéo dài. Đó cũng là do so sánh lực lượng, so sánh thế và lực.

Năm 544 Lý Bôn khởi nghĩa vũ trang thành công, năm 545 nhà Lương lại phái Dương Phiên đem quân sang xâm lược. Lý Bôn và Triệu Quang Phục rút lên núi và về vùng nông thôn đồng bằng để đánh du kích tiếp tục duy trì cuộc kháng chiến. Triệu Quang Phục tiến hành đánh du kích trong vài năm, rồi dần dần phát triển lên đánh tập trung và tới năm 548 (trong 3 năm: 545 đến 548) mới thực hành phản công chiếm lại Long Biên, giải phóng được đất nước.

Cuộc chiến tranh du kích lâu dài của Lê Lợi phải mấy năm sau mới tiến hành phản công cục bộ và cho tới năm 1426, tức là 8 năm sau, mới thực hành phản công chiến lược quyết định, và một năm sau, tức 1427 thì giành được thắng lợi hoàn toàn. Trong phản công và tấn công, Lê Lợi không những chỉ phản công và tiến công bằng quân sự, bằng quân chủ lực và quân du kích, mà Lê Lợi còn phản công và tiến công bằng binh vận địch vận.

Trong thời kỳ thực hành phản công chiến lược cục bộ từ Nghệ An, hai đòn phản công quân sự và địch vận đã hỗ trợ nhau và đã thu được thắng lợi. Tướng giặc ở Trà Long (Nghệ An) đã hàng nghĩa quân Lam Sơn.

Đến thời kỳ tổng phản công, đại quân của Lê lợi đánh ra ngoài Bắc-đánh vào trận địa chủ yếu, trận địa cuồl cùng của địch ở vùng xung quanh Đông Đô-thì đòn tiến công địch vận vẫn đi sát đòn tiến công quân sự-hai đòn hỗ trợ nhau, và phát huy thắng lợi tốt.

Tổng tư lệnh quân địch là Vương Thông cùng 5 vạn quân đã hàng ở Đông Đô (Hà Nội) và các thành luỹ khác cũng đầu hàng hàng loạt.

Trên đây là những cuộc phản công và tiến công có nhiều vẻ khác nhau và đều thành công. Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta cũng có cuộc chiến tranh vì phản công quá sớm, đánh tập trung quyết chiến quá sớm nên không thành công.

Sau khi Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang thành công chưa được bao lâu thì lại phải chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược mới của nhà Hán do Mã Viện chỉ huy.

Nước ta mới được độc lập, quân đội chưa được tổ chức huấn luyện thành một quân đội mạnh, tinh nhuệ. Trong tình hình đó, đánh tập trung, phản công, quyết chiến ngay là chưa phù hợp. Đó là nguyên nhân làm cho cuộc kháng chiến không thành công.

Trước sự so sánh lực lượng như thế, dân tộc ta đã có cách đánh thích hợp và giành được thắng lợi. Lý Bôn, Triệu Quang Phục đã biết đánh du kích, phân tán địch, tiêu hao, tiêu diệt nhỏ quân địch, giữ gìn, bồi dưỡng, phát triển lực lượng của ta từng bước, dần dần làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo ra thế mạnh, tạo ra thời cơ, điều kiện để tiến lên đánh tập trung rồi thực hành phản công, đạt được tiêu diệt chiến lược, giành thắng lợi quyết định về chiến lược và tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã thực hành đánh du kích rồi tiến lên đánh tập trung, rồi thực hành phản công cục bộ, từng bước, từ Biên giới đến Điện Biên Phủ và cuối cùng giành được thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước. Những cuộc phản công này nằm trong tình hình của một cuộc chiến tranh nhân dân phát triển trong cả nước. Nó được sự hỗ trợ đắc lực của các hướng tiến công và phản công khác trong cả nước của một cuộc chiến tranh nhân dân. Vì thế mà sức mạnh của các cuộc phản công đã được tăng lên gấp bội. Quân địch bị cuộc chiến tranh nhân dân bao vây chia cắt trong cả nước, nên bị suy yếu và căng mỏng. Do đó mà không tập trung được sức mạnh để đối phó có hiệu quả.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa vĩ đại nhất, phát triển cao nhất và phong phú nhất trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ta. Trong một xã hội hiện đại, phát triển cao như ngày nay thì cuộc chiến tranh có rất nhiều yếu tố phức tạp và rất phong phú. Sự vận động của chiến tranh không đơn giản như trước kia. Sự so sánh lực lượng, so sánh thế và lực giữa hai bên cũng nhiều cái phức tạp; phải tính đến nhiều yếu tố. Do đó mà nghệ thuật phản công và tiến công của lực lượng vũ trang nhân dân ta có những sự phát triển mới rất phong phú và sáng tạo trong một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng phát triển rất cao. Ta tiến hành đồng thời đánh du kích và đánh tập trung, đánh địch cả ở các vùng và các tuyến, tiến hành phản công và tiến công liên tục, ở các quy mô nhỏ, vừa và lớn, trên nhiều hướng khác nhau, và đồng loạt, đều khắp trên toàn tuyến cả quân sự và chính trị; kết hợp giữa phản công, tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở chiến trường với sự phản công, tiến công chính trị của nhân dân thế giới và nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lược, chống bọn cầm quyền hiếu chiến.

Trên đây là sự vận động và phát triển của nghệ thuật phản công và tiến công trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta.

Dân tộc ta đã có một nghệ thuật phản công và tiến công phát triển muôn màu muôn vẻ, tài giỏi và thắng lợi. Sự muôn màu muôn vẻ đó, chứng tỏ Tổ tiên ta đã biết căn cứ vào điều kiện cụ thể của mỗi cuộc chiến tranh mà vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Điều này cũng chứng minh một khía cạnh trong tư tưởng biện chứng của Nguyễn Trãi là “điều kiện tồn tại và vận động của sự thật”. Sự vật không ra đời một cách ngẫu nhiên mà phải có điều kiện cụ thể mới xuất hiện được. Cũng cùng một sự vật, ở không gian, thời gian này nó xuất hiện một cách khác; ở một không gian, thời gian khác thì nó lại xuất hiện một cách khác. Cho nên việc chỉ đạo chiến tranh phải rất linh hoạt và sáng tạo; không có thể rập khuôn máy móc.

Mục đích của phản công và tiến công chiến lược là đánh những đòn tiêu diệt lớn, tiêu diệt chiến dịch và chiến lược, có ý nghĩa về chiến dịch và chiến lược, làm thay đổi sự so sánh lực lượng, thay đổi thế và lực trên chiến trường, làm thay đổi tình thế, tạo ra sự chuyển biến cục diện, tạo ra bước phát triển mới trong chiến tranh, tạo ra những bước ngoặt trong chiến tranh, tạo ra bước ngoặt quyết định, bước phát triển nhảy vọt, giành thắng lợi quyết định và thắng lợi hoàn toàn.

Trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nhà Nguyên lần thứ 2 năm 1285, đòn phản công thứ nhất của Trần Hưng Đạo tiêu diệt và đánh tan đạo quân của Toa Đô, phá vỡ một thế trận, một cánh ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ của quân xâm lược nhà Nguyên, làm cho Thoát Hoan bị cô lập ở Thăng Long, lực lượng quân xâm lược bị suy yếu, thế trận không dựa được vào nhau, tinh thần và ý chí bị lung lay. Cuộc phản công đó thắng lợi đã phát triển thế chủ động của quân ta, động viên tinh thần, ý chí của quân dân ta, mở rộng địa bàn chiến lược của quân ta, tạo ra thế đứng có lợi để bao vây Thăng Long. Cuộc phản công đó đã tạo ra sự chuyển biến cục diện, tạo ra điều kiện thuận lợi để thực hành cuộc phản công thứ 2.

Cuộc phản công thứ 2 tức cũng là một đòn tiến công chiến lược tiêu diệt đạo quân Thoát Hoan, tập đoàn chiến lược chủ yếu của địch ở giữa Thăng Long và Chương Dương, là một đòn tiêu diệt chiến lược quyết định, giành thắng lợi quyết định rồi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Về hướng tiến hành phản công và đối tượng, mục tiêu tác chiến, Trần Hưng Đạo đã chọn hướng địch sơ hở, chọn đạo quân yếu ở ngoài thành quách mà đánh trước. Những yếu tố trên có thể bảo đảm cho việc chắc thắng. Đạt được thắng lợi bước đầu rồi, tạo được thế lợi rồi thì có thể tiếp tục tiến đánh các đạo quân mạnh hơn, lớn hơn ở những địa bàn chiến lược quan trọng hơn.

Trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đã thực hành tiến công và phản công từ nhỏ đến lớn, từ tiêu diệt chiến thuật, chiến dịch đến tiêu diệt chiến lược, rồi đến tiêu diệt chiến lược quyết định. Đó cũng là quy luật chung của một cuộc chiến tranh du kích, phát triển từ nhỏ đến lớn, từ đánh du kích tiến lên đánh tập trung. Thời kỳ phản công có ý nghĩa là sau khi đã di chuyển đội quân chủ yếu vào Nghệ An (1424), lập căn cứ địa mới ở đó. Nghĩa quân Lam Sơn đã chọn chỗ địch yếu, sơ hở, cô lập; về phía ta thì có nhân dân vững mạnh làm chỗ dựa vững chắc để thực hành những trận phản công có ý nghĩa chiến lược để giành thắng lợi bước đầu làm cơ sở tốt cho các bước phát triển sau.

Phân tích đúng tình hình địch, ta trong so sánh lực lượng, so sánh thời và thế nên sau khoảng một năm mở những cuộc phản công và tiến công liên tiếp, nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi lớn, toàn diện, giải phóng được Tân Bình (Quảng Bình), Thuận Hóa và đẩy quân địch ở khu vực Nghệ An chuyển hoàn toàn vào thế phòng ngự, co hẹp địa bàn chiếm đóng của địch vào một vùng đồng bằng nhỏ bé. Vùng căn cứ của ta được mở rộng từ Thuận Hóa ra tới Thanh Hóa, lực lượng vũ trang được phát triển nhanh chóng. Đó là những thắng lợi chiến lược rất quan trọng, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tạo ra điều kiện thuận lợi cho nghĩa quân tiến ra Bắc.

Sau khi tiến ra Bắc, đòn phản công đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng về chiến lược là trận tiêu diệt chiến lược trong chiến dịch Chúc Động-Tốt Động 1426. Trận này nghĩa quân đã tiêu diệt 5 vạn quân trong đạo quân 10 vạn của Vương Thông chiếm đóng khu vực Đông Đô (Hà Nội) và lân cận, đánh qụy tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược, buộc địch chuyển sang phòng ngự hoàn toàn về chiến lược trong cả nước, tạo điều kiện cho nghĩa quân tiến lên đánh một đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng đất nước.

Sau thắng lợi chiến dịch Chúc Động-Tốt Động, bộ chỉ huy nghĩa quân thấy rằng thế và lực giữa ta và địch đã có sự chuyển biến về căn bản, quân địch đã suy yếu hẳn. Chủ lực của địch không thể chọi được với chủ lực của ta ở cả ngay hướng chúng còn tương đối mạnh. Còn về quân ta thì đã trưởng thành nhanh chóng, đã lớn mạnh về các mặt, đã là một đội quân thiện chiến. Căn cứ vào tình hình trên, bộ chỉ huy nghĩa quân thấy đã có thời cơ và điều kiện để đánh những đòn quyết chiến chiến lược quyết định.

Thời kỳ giành thắng lợi cuối cùng đã mở ra: Quân ta có thể giao chiến được với đội quân chủ lực của địch và có thể tiêu diệt được đội quân đó. Những nhận định và chủ trương này dẫn tới cuộc quyết chiến chiến lược, tiêu diệt đạo quân cứu viện chủ yếu của quân xâm lược nhà Minh do Liễu Thăng chỉ huy ở Chi Lăng và Xương Giang (Bắc Giang), giành được thắng lợi hoàn toàn cho cuộc chiến tranh giải phóng.

Trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nhà Tống và nhà Thanh, Lý Thường Kiệt và Quang Trung lại thực hành phản công vào hướng tiến công chủ yếu của địch, đánh vào ngay đạo quân mạnh nhất của địch, tiêu diệt được đạo quân đó và giành được thắng lợi chiến lược quyết định một cách nhanh chóng. Đó cũng là do sự so sánh lực lượng, so sánh về thế và lực giữa hai bên, so sánh về trình độ tác chiến của quân đội và tài chỉ huy của hai bên.

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh, dựa theo quy luật chung của một cuộc chiến tranh giải phóng phát triển từ đánh du kích tiến lên đánh tập trung, quân đội ta cũng thực hành phản công cục bộ, bắt đầu ở những hướng quân địch yếu, cô lập trước, sau mới đến chỗ quân địch tương đối mạnh và mạnh.

Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ có nhiều điểm khác với tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta trước đây. Những điểm khác đó là những điều kiện về nhân dân, về quân đội, về Nhà nước, về xã hội, về Đảng lãnh đạo, về tình hình chính trị, kinh tế, quân sự, về tình hình trong nước ta, trên thế giới và trong nước Mỹ, điều kiện về thời đại, v.v.

Trên cơ sở những yếu tố đó, mà nghệ thuật tiến công và phản công của lực lượng vũ trang nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược phát triển rất phong phú, sáng tạo, muôn màu, muôn vẻ trong một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng phát triển cao, độc đáo của Việt Nam, có nhiều cái mới trong thời đại ngày nay. Ta có thể phản công và tiến công ở các hướng khác nhau, đánh với tất cả mọi đối tượng, mục tiêu, cả quân Mỹ và quân ngụy, cả với những đơn vị tinh nhuệ nhất của quân Mỹ, đánh cả ở nông thôn và thành thị, đánh ở các hướng khác nhau và có thể đồng loạt trên nhiều hướng, có thể phản công và tiến công ngay từ đầu cuộc chiến tranh và ngày càng phát triển mạnh trong các giai đoạn sau: phản công và tiến công bằng cả quân sự, chính trị, binh vận, địch vận, ngoại giao và hoạt động quốc tế.

Qua những thực tế chiến tranh trên đây, vấn đề chọn hướng, mục tiêu, đối tượng phản công và tiến công cũng có rất nhiều hình vẻ, rất phong phú linh hoạt.

Đây lại là vấn đề “điều kiện tồn tại và vận động của sự vật”.

Tuy một sự vật có nhiều hình vẻ, có chỗ giống nhau và khác nhau. Nhưng sự vật vận động là có quy luật. Quy luật đó là sự vận động của bản chất của sự vật, là điều kiện cụ thể tạo thành sự vật đó. Bản chất của sự vật thế nào, các điều kiện, nhân tố hình thành sự vật như thế nào, thì nó sẽ biểu hiện ra đúng như bản chất và điều kiện tồn tại của nó.

Muốn thực hành phản công và tiến công thì phải tổ chức các chiến dịch phản công và tiến công để tiêu diệt quân địch, tiêu diệt các tập đoàn chiến dịch, chiến lược của địch; vừa tiêu diệt lực lượng quân sự và lực lượng chính trị của địch, vừa phá vỡ thế trận của địch, giành dân, giải phóng đất đai. Nội dung và yêu cầu của phản công và tiến công là phải tiêu diệt được lực lượng lớn của địch, tiêu diệt được tập đoàn chủ yếu của địch và cơ quan chỉ huy cao cấp của địch, chiếm lĩnh được trận địa của địch, giành được dân về ta, giải phóng được đất đai. Có thế phản công và tiến công mới giành được thắng lợi to lớn, thắng lợi quyết định.

Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta, phản công và tiến công có muôn màu, muôn vẻ, rất phong phú, linh hoạt, sáng tạo và đã phát triển tới một trình độ, một nghệ thuật cao.

2. VẤN ĐỀ RÚT LUI VÀ PHÒNG NGỰ

Trong chiến tranh, có phản công, tiến công và cũng có rút lui và phòng ngự.

Đối với quan điểm cách mạng, quan điểm đấu tranh triệt để thì rút lui và phòng ngự, chỉ là tạm thời, là sách lược, là chuẩn bị điều kiện cho phản công và tiến công. Vì phòng ngự là không có thể tiêu diệt được quân địch. Lý Bôn, Triệu Quang Phục rút lui để bảo toàn lực lượng, rồi chuyển sang phản công và tiến công. Trần Hưng Đạo rút lui để nhử địch vào sâu, phân tán quân địch, làm cho địch mệt mỏi, sa vào thế bị bao vây khốn quẫn, rồi chuyển sang phản công và tiến công. Lê Lợi nổi dậy tiến công địch, rồi có lúc phải tạm rút lui sâu vào vùng núi ở phía bắc Thanh Hóa, sau lại chuyển sang tiến công, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm, rút lui về núi Tam Điệp, chuẩn bị cho Quang Trung ra phản công chiếm lại Thăng Long.

Trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Pháp lần thứ 2 (1945-1954) quân ta cũng từ các thành thị rút về nông thôn đồng bằng và rừng núi, rồi chuyển sang phản công và tiến công.

Đó là những cuộc rút lui cần thiết, trước một quân địch còn tạm thời mạnh hơn, mà chưa đủ sức tiêu diệt chúng, ngăn chặn hẳn chúng lại, hoặc đánh bật chúng ra khỏi đất nước. Đứng về mặt hành động chiến lược thì là rút lui. Nhưng về mặt chiến đấu và chiến dịch thì vẫn có tiến công và phản công. Quá trình rút lui vẫn là quá trình chiến đấu tiêu hao và tiêu diệt nhỏ quân địch. Điểm này thể hiện rõ nét nhất là ở cuộc chiến tranh thời nhà Trần và trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp lần thứ 2.

Rút lui trong các cuộc chiến tranh này là rút lui tích cực, chứ không phải là rút lui đơn thuần, rút lui một cách tiêu cực. Rút lui là một hình thức khác của việc xoay chuyển thế trận; tìm một thế trận khác có lợi hơn; nhường địch một bước làm giảm sức mạnh của chúng, đưa chúng vào một thế bất lợi hơn để ta chuẩn bị điều kiện tốt hơn rồi mới quyết chiến với địch mà tiêu diệt chúng.

Về phòng ngự thì có phòng ngự trong cuộc chiến tranh thời Lý và thời Trần.

Lý Thường Kiệt đã tổ chức phòng ngự ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) và Trần Quang Khải đã tổ chức phòng ngự ở vùng Nghệ An. Hai trận phòng ngự này là phòng ngự tích cực chứ không phải là phòng ngự đơn thuần, phòng ngự tiêu cực, mà Lý Thường Kiệt và Trần Quang Khải đã hoàn thành được nhiệm vụ của phòng ngự là ngăn chặn được quân địch, tiêu hao được quân địch, rồi chuyển sang phản công tiêu diệt quân địch.

Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta cũng có trận chiến phòng ngự đơn thuần tiêu cực và đi đến thất bại. Đó là trận chiến phòng ngự trận địa tiêu cực của Hồ Quý Ly, dựa vào thành Đa Bang trên bờ phía nam sông Hồng. Kết quả là không thể tiêu diệt được quân địch và cũng không thể chống đối nổi với quân xâm lược nhà Minh và bị thất bại, bị mất nước.

3. VẤN ĐỀ TIÊU DIỆT CHIẾN LƯỢC VÀ NGHỆ THUẬT QUYẾT CHIẾN

Trong chiến tranh, vấn đề tiêu diệt chiến lược là vấn đề hết sức quan trọng. Tiêu diệt đối phương, đè bẹp sự kháng cự của đối phương, buộc đối phương phải nhận sự thất bại. Đó là yêu cầu cao nhất của chiến tranh, để đạt mục đích cao nhất của chiến tranh là giành thắng lợi chiến tranh. Tiêu diệt đối phương, có tiêu diệt nhỏ, vừa và lớn, có tiêu diệt chiến thuật, tiêu diệt chiến dịch và tiêu diệt chiến lược. Các mức tiêu diệt đó đều quan trọng, nó bồi bổ, bổ sung cho nhau và tạo điều kiện cho nhau, tạo thành một sức tiêu diệt địch rất rộng rãi, rất mạnh. Nhưng trong các mức đó thì tiêu diệt chiến lược là quan trọng nhất. Tiêu diệt chiến lược làm cho sự so sánh lực lượng giữa hai bên thay đổi một cách nhanh chóng, tạo ra thế chiến lược mới, tạo ra sự chuyển biến cục diện chiến tranh, tạo ra thắng lợi chiến lược, thắng lợi chiến lược quyết định trong chiến tranh. Đánh tiêu diệt là một yêu cầu bức thiết để giành thắng lợi trong chiến tranh. Đánh tiêu diệt nhỏ, vừa, lớn là một quá trình phát triển dần dần từ nhỏ đến lớn, từ lượng đến nhất.

Tiêu diệt chiến lược là một chuyển biến về chất trong quá trình vận động và phát triển của chiến tranh.

Tiêu diệt chiến lược không những chỉ tiêu diệt một lực lượng lớn, quan trọng của địch trong một thời gian ngắn mà còn tiêu diệt và đánh bại từng tập đoàn chiến lược, từng đạo quân của địch. Các tập đoàn chiến lược, các đạo quân là những lực lượng cốt cán, là những tổ chức cốt cán của lực lượng vũ trang để tiến hành chiến tranh, để tiến hành các đòn đánh quyết liệt, quyết định trong chiến tranh. Tiêu diệt chiến lược của địch, đánh bại tổ chức chiến dịch, chiến lược của địch, đánh bại các ý đồ, kế hoạch chiến lược của địch, đánh bại nghệ thuật tác chiến chiến dịch, chiến lược của địch, và trên cơ sở đó mà đánh bại ý chí kháng cự của địch. Muốn tiêu diệt chiến lược phải tổ chức các chiến dịch lớn, và các chiến dịch có tính chất quyết chiến về mặt chiến lược.

Chủ lực của hai bên, các tập đoàn chiến lược, đương đầu giao chiến với nhau, đối chọi với nhau một cách quyết liệt. Cuộc đối chọi quyết liệt đó diễn ra dưới hình thức quyết chiến chiến lược. Quyết chiến chiến lược là một cuộc đấu tranh gay gắt nhất, quyết liệt nhất, cao nhất, giải quyết mâu thuẫn lớn nhất, tập trung nhất trong chiến tranh.

Quyết chiến chiến lược là một cuộc thử thách lớn nhất, một cuộc thử thách toàn diện các mặt trong chiến tranh, là một sự thử thách về tài tổ chức và nghệ thuật chỉ huy; là một sự thử thách về ý chí, là một sự đối chọi quyết liệt nhất của hai bên tham chiến. Muốn giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong chiến tranh thì cần thiết phải tiến hành quyết chiến chiến lược để tiêu diệt chiến lược quyết định. Quyết chiến chiến lược là một thành phần tinh đặc nhất trong sự cấu thành của chiến tranh, là một nhân tố rất quan trọng trong vận động của chiến tranh, là một sự vận động có tính quy luật trong toàn bộ quá trình vận động và phát triển của chiến tranh.

Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta, tiêu diệt chiến lược và quyết chiến chiến lược thường xuất hiện và diễn ra một cách phổ biến vào thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến và chiến tranh giải phóng.

Lý Thường Kiệt đã tiến hành quyết chiến chiến lược trên chiến tuyến sông Cầu để tiêu diệt chiến lược quyết định mà giành được thắng lợi trong chiến tranh. Lý Thường Kiệt chỉ thực hành một cuộc quyết chiến chiến lược cũng giành được thắng lợi chiến tranh. Quyết chiến chiến lược và tiêu diệt chiến lược của Lý Thường Kiệt được sự hiệp đồng và hỗ trợ rất đắc lực của nhiều trận đánh nhỏ và vừa. Các trận đánh đó đạt được mục đích tiêu hao địch một cách rộng rãi và thực hiện được tiêu diệt chiến thuật và chiến dịch, tạo điều kiện tốt cho việc chuẩn bị quyết chiến để tiêu diệt chiến lược.

Trần Hưng Đạo, qua từng trận đánh nhỏ đạt tiêu hao và tiêu diệt chiến thuật, rồi tiến lên tổ chức một số chiến dịch, đạt được tiêu diệt chiến dịch và chiến lược, rồi trên cơ sở những thắng lợi đó mà tiến hành quyết chiến chiến lược, đạt được tiêu diệt chiến lược quyết định, giành được thắng lợi cho chiến tranh, hoặc giành được thắng lợi cơ bản, thắng lợi quyết định cho chiến tranh. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), Trần Hưng Đạo đã tổ chức một trận quyết chiến tiêu diệt đạo quân Thoát Hoan, tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược, ở giữa Thăng Long và Chương Dương. Sau một chiến dịch lớn đã tiêu diệt và đánh tan đạo quân Toa Đô trên sông Hồng, từ bến Hàm Tử đến cửa sông Luộc, giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, đập gãy một thế trận của địch làm cho Thoát Hoan ở Thăng Long bị cô lập. Sau trận Hàm Tử, quân địch bị suy yếu một bước quan trọng, lâm vào thế bị động lúng túng. Nắm được thời cơ có lợi, Trần Hưng Đạo liền tổ chức một trận quyết chiến Chương Dương-Thăng Long nhằm tiêu diệt đạo quân Thoát Hoan. Trận quyết chiến này đã thành công, giành thắng lợi chiến lược quyết định, tạo ra điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc tiếp tục tiêu diệt và đánh bại hoàn toàn quân xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288), Trần Hưng Đạo cũng đã tổ chức hai trận quyết chiến chiến lược; một trận ở Bạch Đằng, tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi và một trận ở vùng Vạn Kiếp, tiêu diệt và đánh tan đạo quân Thoát Hoan. Hai trận này đã thành công rực rỡ và hai trận này đã chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn mưu đồ xâm lược của triều đình phong kiến nhà Nguyên đối với nước ta.

Trận Bạch Đằng là một trận đã thể hiện được trình độ chỉ huy cao và nghệ thuật chỉ huy tài của bộ chỉ huy quân đội nhà Trần. Việc nắm địch, phán đoán địch được chính xác, biết được ý đồ rút lui của địch. Việc chọn mục tiêu, đối tượng tiến công cũng rất đúng. Tập trung lực lượng đánh đạo quân rút trước, đánh đạo quân đang vận động trên đoạn đường rút lui xa có nhiều khó khăn trước. Diệt được đạo quân này một cách nhanh gọn sẽ tạo điều kiện tốt cho việc tiêu diệt tiếp đạo quân thứ hai. Nếu không đồng thời tiêu diệt được cả hai đạo quân trong cùng một lúc thì cũng tập trung lực lượng tiêu diệt gọn một đạo quân yếu trước. Sau đó sẽ tiếp tục tiêu diệt các đạo quân khác. Về thế trận thì chọn được khu vực quyết chiến có lợi. Trong khu vực quyết chiến lại biết cải tạo địa hình, tổ chức lại chiến trường, nhử địch vào cạm bẫy, làm cho địch đang mạnh hóa thành yếu đột ngột, không kịp và không có cách xử trí đối phó, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt địch một cách dễ dàng. Về sử dụng lực lượng thì đã cơ động đúng lúc lực lượng dự bị chiến lược đứng chân ở địa bàn cơ động tập trung về hướng tiến công chiến lược có lợi nhất, có điều kiện phát triển thuận lợi nhất. Tập trung lực lượng vào hướng đó thì có thể giành được thắng lợi to lớn. Thắng lợi chiến lược đó đạt được thì sẽ tạo ra điều kiện rất thuận lợi cho bước phát triển tiếp theo. Do có trình độ và nghệ thuật chỉ huy cao cường nên trận Bạch Đằng là một trận thắng lợi rất đẹp, một trận thắng lợi rất oanh hệt.

Trong cuộc chiến tranh giải phóng của nghĩa quân Lam Sơn, sau một thời gian dài tiêu hao và tiêu diệt nhỏ và vừa quân địch, đến năm 1426, Lê Lợi-Nguyễn Trãi mới có điều kiện tổ chức các chiến dịch lớn, thực hiện viện tiêu diệt chiến lược đối với quân địch.

( còn nữa) 1….
<a href="http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/122/122/122/2975