Lưu trữ

Posts Tagged ‘Xuân 1975’

Nghệ thuật huy động sức mạnh đánh địch

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nhân dân Sài Gòn đón chào quân Giải phóng trong ngày 30-4-1975. (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN)

Quy luật chung trong chiến tranh và tác chiến, sức mạnh đánh địch có vị trí rất quan trọng, giữ vai trò quyết định giành thắng lợi. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế binh vận và ngoại giao. Quá trình đánh địch, chúng ta đã kết hợp tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, tiến hành thành công nhiều trận đánh lớn, chiến dịch, nhất là chiến dịch chiến lược. Trong tác chiến các lực lượng đã đánh địch trên nhiều môi trường, phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương, tổ chức và tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Nét nổi bật trước hết là chúng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đường lối tiến hành chiến tranh của Đảng, là tiến hành chiến tranh nhân dân. Tổ chức thực hiện thành công đường lối, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, trên mọi miền đất nước đẩy mạnh đánh địch. Về cách đánh, quân và dân ta đã đánh địch trên nhiều mặt trận. Cùng với mặt trận quân sự, trên mặt trận chính trị ta đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân và dư luận thế giới thấy rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến; chính sách hòa hợp dân tộc là nguyện vọng chính đáng của toàn dân, làm rõ bản chất chính quyền tay sai mưu toan chia cắt đất nước lâu dài của kẻ thù…

Trên mặt trận kinh tế cùng với phát triển hậu phương miền Bắc, ta đẩy mạnh phát triển kinh tế ở vùng giải phóng, thông qua cơ sở chính trị để mua hàng hóa trong vùng địch tạm chiếm, vận chuyển ra, tăng cường khả năng dự trữ cho chiến đấu. Trong công tác binh vận, ta thuyết phục, giác ngộ những binh sĩ, những người lầm đường, lạc lối giúp họ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, trở về phục vụ cách mạng…

Trên mặt trận ngoại giao, sau hiệp định Pa-ri được ký kết, ta tiếp tục đấu tranh, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cả nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam… Có thể nói ta đã phát huy cao nhất sức mạnh và cách đánh sở trường của từng lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng quân địch.

Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

Đặc điểm trong chiến tranh giải phóng, lực lượng ngụy quân luôn coi trọng thiết lập hệ thống đồn bốt, tạo thế để hệ thống ngụy quyền kìm kẹp nhân dân. Trong tổng tiến công các lực lượng đã kết hợp rất chặt chẽ tiến công quân sự với nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ của nhân dân. Trong tiến công quân sự, ta đã phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, phá tan hệ thống đồn bốt, chỗ dựa chủ yếu của lực lượng ngụy quyền, tạo thế có lợi để nhân dân nổi dậy đấu tranh. Trong đấu tranh các tầng lớp nhân dân đã nhất tề đứng lên diệt ác, phá kìm, lật đổ hệ thống chính quyền tay sai, giải phóng quê hương, phát triển tiềm lực cách mạng.

Chúng ta đã phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.

Trong tiến công chiến lược, quân và dân ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương đánh địch rộng khắp trên toàn chiến trường, sát thương, phân tán, căng kéo, làm suy yếu quân địch. Buộc chúng phải dồn sức, tung cả lực lượng tổng dự bị chiến lược ra chiếm giữ vùng 1 và vùng 3 chiến thuật. Đây là điều kiện và thời cơ có lợi để ta tập trung các binh đoàn chủ lực mạnh, đánh lớn, giành thắng lợi quan trọng. Mở đầu là Chiến dịch chiến lược tiêu diệt địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, trên đường 7, đường 21, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, phát triển xuống giải phóng các tỉnh đồng bằng Trung bộ, chia cắt quân địch về chiến lược. Tạo thế có lợi, phối hợp chiến trường, quân và dân ta đã đẩy mạnh đấu tranh và đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, từ Quảng Trị đến đồng bằng Nam Bộ. Nắm thời cơ, quân và dân Trị Thiên, Quân khu 5, đã mở liên tiếp hai chiến dịch lớn tiến công địch, giải phóng hai thành phố Huế và Đà Nẵng, nối liền hậu phương chiến lược miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.

Đánh địch trên nhiều môi trường đất liền, biển, đảo và trên không.

Cùng với đánh địch trên đất liền, quân và dân ta còn tiến ra đánh địch trên vùng biển của Tổ quốc. Ta đã giải phóng nhiều đảo và quần đảo do quân ngụy chiếm đóng, khẳng định và bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước, tạo thế chia cắt chiến lược trên nhiều môi trường với lực lượng địch còn lại. Tạo thế có lợi để ta chi viện cho chiến trường tác chiến.

Phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta không chỉ phát huy sức mạnh đánh địch ở tiền tuyến lớn miền Nam. Mà ta còn động viên sức mạnh đấu tranh trên các mặt trận, cũng như sự chi viện rất lớn về vật chất cũng như tinh thần từ hậu phương chiến lược miền Bắc. Hội đồng chi viện cho chiến trường được thành lập. Hàng vạn quân, cả binh đoàn cơ động chiến lược, hàng chục vạn tấn vật chất, cùng nhiều phương tiện tác chiến hiện đại được gấp rút đưa vào chiến trường, bằng nhiều đường và phương tiện vận chuyển bộ, thủy, không. Phát huy sức mạnh đánh địch ở cả tiền tuyến lớn miền Nam và hậu phương chiến lược miền Bắc, đã tạo ra thời cơ có lợi để quân và dân cả nước thực hiện quyết tâm chiến lược: Giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa.

Tổ chức, tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giành thắng lợi quyết định chiến tranh

Chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hình thành trong quá trình tiến công chiến lược, nhiệm vụ đặt ra rất cao, thời gian chuẩn bị lại rất ngắn. Thực hiện phương châm chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, chắc thắng. Trong thời gian ngắn ta đã khẩn trương cơ động tập trung lực lượng lớn, tương đương 5 quân đoàn, cùng nhiều sư và lữ đoàn của các quân chủng, binh chủng. Các lực lượng của ta đã triển khai hình thành 5 hướng tiến công mạnh, bao vây, chia cắt địch ở nhiều cấp. Lực lượng chính trị và nhân dân trên địa bàn chiến dịch được chuẩn bị, sẵn sàng tham gia đấu tranh trên các mặt trận và phối hợp đánh địch trong quá trình tác chiến. Tạo được sức mạnh ưu thế về vật chất và tinh thần, ta đã đồng loạt tiến công mạnh, đánh địch trên cả 5 hướng. Các lực lượng đã nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch phòng ngự ở tuyến ngoài, các binh đoàn thọc sâu mạnh, đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu bên trong nội đô, như: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy… hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Có nghệ thuật tạo sức mạnh, lại vận dụng sáng tạo cách đánh, quân và dân ta đã đánh nhanh, giành thắng lợi quyết định chiến dịch quyết chiến chiến lược, tạo thế để quân và dân đồng bằng Nam Bộ đẩy mạnh đánh địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Bài học thành công về phát huy sức mạnh đánh địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975, rất cần được các cấp và các ngành nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng, cũng như chuẩn bị và đánh địch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới.

Thiếu tướng, PGS, Tiến sĩ Bùi Thanh Sơn

Chiến dịch Hồ Chí Minh – một điển hình của nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của Cuộc Tổng tiến công chiến lược, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Nó là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, với đặc trưng “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, giành thắng lợi hoàn toàn, triệt để, trong thời gian ngắn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 gồm ba chiến dịch kế tiếp: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực chất, đây là ba đòn tiến công có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó, chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4 – 30-4-1975) là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đây là chiến dịch đã tận dụng được và phát huy cao độ thế chiến lược do các chiến dịch trước (Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng) tạo ra để tập trung lực lượng với ưu thế áp đảo quân địch cả về lực lượng, thế trận và tinh thần. Chiến dịch đó phát huy cao nhất sức mạnh của các binh đoàn, binh chủng hợp thành với quy mô lớn nhất, đập tan tuyến phòng thủ của địch ở vòng ngoài; đánh thẳng vào trung tâm đầu não, sào huyệt của địch, kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).

Nét đặc sắc của Chiến dịch Hồ Chí Minh là: đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch – ta, kiên định thực hiện chủ trương của Bộ Chính tri, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Chỉ huy là tập trung lực lượng, chọn thời cơ, tiến công kiên quyết, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để.

Về địch, chúng đang ở thế “co cụm” phòng ngự, với lực lượng tập trung tương đương 2 quân đoàn, được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại cùng với số lượng khá lớn quân địa phương. Đây còn là “Thủ đô”, có các cơ quan đầu não của ngụy quyền, ngụy quân; chúng sẽ ngoan cố chống cự, mặc dù hoang mang, dao động. Cụ thể, lực lượng của chúng gồm: Quân đoàn 3 hoàn chỉnh (chỉ có Sư đoàn 18 bị tổn thất do mới bị đánh ở Xuân Lộc); lực lượng Tổng dự bị chiến lược (2 sư đoàn thiếu là: sư đoàn lính dù và thủy quân lục chiến); lực lượng Biệt khu Thủ đô bảo vệ nội thành; 4 sư đoàn dù (18, 5, 25, 22), 2 sư đoàn thiếu (dù và thủy quân lục chiến, mỗi sư đoàn còn 2 lữ đoàn); 3 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn 3 xe tăng-thiết giáp; 3 sân bay (kể cả sân bay Trà Nóc, Cần Thơ) với 1.360 phi cơ; hải quân còn 1.460 tàu, xuồng…; quân địa phương còn 7 liên đoàn bảo an, vài trăm trung đội dân vệ, 17.000 cảnh sát. Địch bố phòng thành 3 tuyến: tuyến ngoài cùng và tuyến 2, do 4 sư đoàn đảm nhiệm, bố trí trong các căn cứ trước đây thành các cụm cứ điểm mạnh ngăn chặn hướng tiến công của ta. Trong nội thành, phân thành 4 khu vực phòng thủ, do 2 sư đoàn (thiếu) dù và thủy quân lục chiến, 3 liên đoàn biệt động quân, các liên đoàn bảo an, các trung đội dân vệ và cảnh sát đảm nhiệm. Tổng quân số của địch ước khoảng 35 vạn (25 vạn quân chiến đấu, 10 vạn quân hậu cần).

Về ta, lúc tập kết đầy đủ trước khi tiến công, bao gồm: 5 quân đoàn binh chủng hợp thành (15 sư đoàn); 1 lữ đoàn, 10 trung đoàn đặc công và bộ binh; 17 tiểu đoàn bộ binh và biệt động thuộc các tỉnh (thành phố); 35.000 cán bộ địa phương và hàng triệu quần chúng. Tổng quân số của ta: 28 vạn quân chiến đấu cùng 17 vạn quân hậu cần (45 vạn quân). So sánh lực lượng trong  chiến dịch: ta hơn địch 1,5 đến 2 lần; về lực lượng, ta có ưu thế về xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, có pháo cao xạ bảo vệ trên không. Còn về nhân tố tinh thần, ý chí “quyết chiến, quyết thắng” thì ta có ưu thế tuyệt đối so với quân địch. Nếu ta giải quyết tốt về cách đánh thì khả năng tiến công rất lớn, bảo đảm chắc thắng trong thời gian ngắn.

Căn cứ vào quyết tâm và kế hoạch chiến dịch được phê chuẩn, Bộ Tư lệnh chiến dịch (BTLCD) tổ chức 5 cánh quân tiến công (đột phá, thọc sâu) trên 5 hướng vào 5 cụm mục tiêu chủ yếu. Cánh quân Đông Nam do Quân đoàn 2 đảm nhiệm, đột phá từ hướng Đông Nam đánh chiếm cụm mục tiêu Bộ Tư lệnh Hải quân, Cảng Hải quân và Thương cảng; sau khi hoàn thành nhiệm vụ bước đầu, tiếp tục thọc sâu đánh chiếm Dinh Độc Lập (lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975). Cánh quân hướng Đông do Quân đoàn 4 đảm nhiệm, đột phá từ hướng Đông theo Đường số 1, được chỉ định đánh chiếm cụm mục tiêu Dinh Tổng thống và tiếp quản Thành phố (quá trình tiến công bị địch ngăn chặn nên tiến chậm). Cánh quân phía Bắc do Quân đoàn 1 đảm nhiệm, đột phá từ phía Bắc, đánh chiếm cụm mục tiêu Bộ Tổng tham mưu địch. Cánh quân phía Tây Bắc do Quân đoàn 3 đảm nhiệm, đột phá đánh chiếm căn cứ không quân Tân Sơn Nhất – Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tư lệnh Dù. Cánh quân Tây Nam do Đoàn 232 đảm nhận, đột phá từ hướng Tây Nam, cắt đứt lộ 4, đánh chiếm mục tiêu Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô. Cùng với đó là hướng phối hợp do cánh quân chính Nam (gồm 2 trung đoàn độc lập số 88 và 24) từ nam Long An vượt qua Cần Giuộc, Cần Đước, qua cầu chữ Y, đánh chiếm Nha Cảnh sát của địch.

Hiệp đồng chặt chẽ giữa các cánh quân trong tác chiến chiến dịch. Đêm 26-4 (rạng sáng 27-4), các lực lượng chiến dịch thực hành tiến công địch theo nhiệm vụ được phân công. Riêng cánh quân Đông Nam đề nghị nổ súng sớm hơn, bắt đầu từ 17 giờ ngày 26-4 vì phải tiến xa mới vào được trung tâm Thành phố; BTLCD đã đồng ý. Theo kế hoạch hiệp đồng, trước 6 giờ 30 ngày 30-4-1975, các cánh quân phải chiếm được các ngoại ô thành phố, các đơn vị pháo chiến dịch ngừng bắn; chỉ có pháo của các lực lượng tiến công trước bắn chi viện theo yêu cầu của bộ binh, xe tăng của từng hướng khi tiến công vào trung tâm thành phố. Từ 6 giờ 30 phút trở đi (cũng là giờ thống nhất tổng công kích vào các mục tiêu đã được phân công), việc đánh chiếm trung tâm Thành phố theo kế hoạch hiệp đồng binh chủng và thực hiện sau này cũng sát đúng như vậy.

Phương pháp tác chiến chiến dịch (cách đánh) được xác định: bỏ hẳn các căn cứ quân sự tuyến ngoài cùng của địch, chỉ để bộ phận nhỏ chủ lực và quân địa phương bao vây kiềm chế; chia cắt đội hình các sư đoàn phòng ngự tuyến ngoài cùng và tuyến 2, sẵn sàng diệt địch, không để chúng rút lui, co cụm về thành phố; diệt một số căn cứ quân sự thật cần thiết trên tuyến 2 cản trở đến các mũi nhọn đột phá, thọc sâu; đồng thời, tổ chức lực lượng mạnh, gồm sư đoàn bộ binh mạnh tăng cường công binh, xe tăng, xe bọc thép, xe tải, thọc sâu đánh chiếm các cụm mục tiêu được phân công. Các cánh quân đã thực hành tiến công dồn dập liên tục 4 ngày, đêm, với tốc độ đột phá 15-20 km/ngày, đêm. Từ 17 giờ ngày 26-4 đến 11 giờ 30-4, đã đánh chiếm Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu và các cụm mục tiêu khác, buộc địch phải đầu hàng không điều kiện. Tiếp đó, đối với đồng bằng Sông Cửu Long, lực lượng tại chỗ đã kết hợp với lực lượng nổi dậy giải phóng 17 tỉnh (không phải mở chiến dịch như đã dự kiến). Cùng với đó là việc giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo trên biển Đông.

Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về nghệ thuật tiến công quân địch bằng chiến dịch hiệp đồng binh chủng. Đó là:

Tính kế hoạch trong tổ chức hiệp đồng. Cơ sở của công tác tổ chức hiệp đồng là quyết tâm, kế hoạch tác chiến chiến dịch. Kế hoạch tác chiến hiệp đồng binh chủng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng đến công tác chuẩn bị chiến trường, theo hướng: đánh lớn, hiệp đồng binh chủng với tốc độ phát triển nhanh trên tất cả các hướng, để tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch có số quân đông và trang bị hiện đại khi thời cơ xuất hiện. Nội dung chuẩn bị là nghiên cứu kỹ cách đánh; cải tiến vũ khí, trang bị, tăng cường và nâng cao sức cơ động, khả năng đảm bảo hậu cần-kỹ thuật cho các binh đoàn cơ động chiến lược, chiến dịch; tăng cường tiếp tế nhiên liệu, đạn dược, lương thực, thực phẩm vào chiến trường; xây dựng căn cứ địa và hậu phương tại chỗ ở khắp nơi và tích cực bổ sung nguồn vật chất dự trữ nơi địa bàn cơ động.

Chuẩn bị lực lượng mạnh, sẵn sàng chiến đấu cao, bố trí sẵn theo ý định, kết hợp với cơ động thần tốc để tập trung lực lượng ở trọng điểm. Nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch là khéo kết hợp các lực lượng cơ động chiến lược với lực lượng địa phương tại chỗ, lực lượng bố trí sẵn và lực lượng cơ động từ xa tới. Do lực lượng, binh khí-kỹ thuật của ta có hạn, để chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân-binh chủng giành thắng lợi, phải sử dụng hết sức tiết kiệm vũ khí, phương tiện, đạn dược, nhất là các loại vũ khí tiến công như xe tăng, thiết giáp, pháo lớn, xe vận tải…

Để sử dụng lực lượng binh chủng linh hoạt và điều chỉnh cách đánh kịp thời, phải nắm chắc tình hình theo sự phát triển của tình huống chiến dịch. Khi địch đang ổn định, có chuẩn bị, có tổ chức, thì phải tập trung hơn địch ở trọng điểm; đánh có chuẩn bị, hiệp đồng chặt chẽ, chắc thắng. Khi địch sơ hở, bối rối, như đang rút lui, đang điều chỉnh chiến lược hay đang tan rã, thì vấn đề chính lại là thời cơ – không chờ tập trung đủ mới đánh; thực hiện đánh chia cắt, bao vây, đánh sân bay, hải cảng, đánh viện binh, đánh đường rút lui là chính. Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch thì tập trung lực lượng đến mức cao nhất và đảm bảo chắc thắng. Cùng với đó, phải phát huy hết chỗ mạnh của từng binh chủng, trong từng tình huống một cách thích hợp như: dùng xe tăng trong tiến công hành tiến, thọc sâu; dùng đặc công đánh chiếm và giữ đầu cầu; dùng pháo phòng không phong tỏa sân bay; dùng không quân uy hiếp tinh thần địch v.v.

Tổ chức lực lượng chiến dịch hợp lý, khoa học giữa các thành phần binh chủng, giữa lực lượng chiến đấu và bảo đảm chiến đấu. Các sư đoàn, quân đoàn bộ binh phải được cơ giới hóa toàn bộ hay từng phần mới nâng cao được tốc độ tiến công, có khả năng hiệp đồng chặt chẽ với các binh chủng kỹ thuật và phát huy được sức mạnh đột kích mạnh. Phải có hỏa lực tầm xa; cải tiến các phương tiện chỉ huy, thông tin, trinh sát mới bảo đảm tác chiến hiệp đồng quân-binh chủng tốt. Phải hết sức coi trọng lực lượng công binh cơ giới làm cầu đường, vượt sông trong thành phần các lực lượng công binh. Ngoài ra, việc lấy trang bị, vũ khí của địch để đánh địch có ý nghĩa hết sức quan trọng, có tác dụng khôi phục và phát triển sức chiến đấu của binh chủng; giải quyết được những khó khăn về đảm bảo hậu cần, kỹ thuật rất lớn cho các quân chủng, binh chủng, nhất là khi đang cơ động tiến công. Thực tiễn Chiến dịch Hồ Chí Minh cho thấy, số đạn lấy được của địch đem vào các mặt trận trong chiến dịch này chiếm 71% tổng số đạn mang theo. Để phát triển tốt điểm này, ngay từ khi lập kế hoạch tiến công đã phải có chủ trương và biện pháp thu hồi trang bị, vũ khí của địch để đánh địch. Khi chiến dịch còn phát triển, cần quy định cho các đơn vị được phép trang bị, sử dụng ngay những thứ cần thiết lấy được của địch để chiến đấu. Cùng với đó, có kế hoạch trước trong việc hướng dẫn bộ đội sử dụng các trang bị, vũ khí của địch.

Theo: Ha Thanh- TC-QPTD-04-2010

Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Cách đây 35 năm, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 đánh đấu bước phát triển vượt bậc nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ.

Thực hiện quyết tâm của Đảng, trong 2 năm 1973-1974, quân và dân ta tích cực làm mọi công tác chuẩn bị, nhanh chóng thành lập các quân đoàn chủ lực, đưa hàng vạn thanh niên, nhân viên kỹ thuật miền Bắc vào tăng cường cho miền Nam. Đẩy mạnh tiến công địch ở địa bàn Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng. Đặc biệt sau giải phóng Phước Long (6-1-1975), thấy rõ khả năng suy giảm của quân ngụy và khả năng khó quay lại của quân Mỹ, chớp thời cơ thuận lợi đó, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Mở đầu cuộc tổng tiến công, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên, được sự chỉ đạo đúng đắn của Bộ Tổng tư lệnh, ta đã chủ động tạo ra được nhiều thời cơ thuận lợi.

Trước hết, là thời cơ đánh trận mở màn then chốt chiến dịch, trận Buôn Ma Thuột, để giữ vững quyền chủ động, ta thực hiện nghi binh, cắt toàn bộ các con đường 19, 7, 21, 14, cô lập địch ở Buôn Ma Thuột, vây chặt tập đoàn chủ yếu của địch ở bắc Tây Nguyên, không cho chúng tăng cường, ứng cứu Buôn Ma Thuột một cách dễ dàng, mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta triển khai lực lượng. Sau khi tạo ra thời cơ mới, rạng sáng 10-3-1975, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Địch chưa kịp trở tay, phán đoán, hành động, thì trưa 11-3 ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột.

Thứ hai, nắm vững thời cơ đánh đòn thứ nhất giành thắng lợi tốt đẹp, ta chủ động tạo ra thời cơ mới, gây cho địch khó khăn mới, buộc chúng phải phạm sai lầm mới. Chính những sai lầm mới của địch lại tạo ra thời cơ mới cho ta. Do đó, nghệ thuật tạo và nắm thời cơ lúc này là: phán đoán, hạ quyết tâm, xử lý đúng đắn, kịp thời để khỏi bỏ lỡ thời cơ, củng cố và phát triển thắng lợi vừa mới giành được, đó là đánh địch phản kích.

Trong Chiến dịch Tây Nguyên, tình huống và thời cơ đánh địch phản kích đã được dự kiến trong kế hoạch chiến dịch và xuất hiện đúng như ta đã dự kiến. Vì vậy, ta đã biến thời cơ thuận lợi đó thành kết quả thắng lợi giòn giã, đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích của Sư đoàn bộ binh 23(-) và Liên đoàn biệt động 21 (từ ngày 12 đến 18-3) đập tan hy vọng giành lại Buôn Ma Thuột, đẩy địch vào những sai lầm nghiêm trọng hơn, đó là rút bỏ Tây Nguyên vào ngày 15-3-1975. Tình huống mới, thời cơ mới lại xuất hiện, lực lượng rút chạy là lực lượng lớn nhất, đông nhất của Quân đoàn 2 ngụy, gồm phần lớn các đơn vị chủ lực của địch. Nắm thời cơ đó, từ ngày 16 đến 24-3, ta mở cuộc truy kích thần tốc tiêu diệt toàn bộ địch rút chạy trên đường số 7, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.

Đồng thời với Chiến dịch Tây Nguyên, Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5, Quân đoàn 2 nhanh chóng tiến công địch trong hành tiến, giải phóng Trị Thiên và Nam Ngãi. Thời cơ mới tiếp tục xuất hiện ở Trị Thiên và Nam Ngãi. Khi phát hiện ra thời cơ, Bộ Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị thực hiện chia cắt chiến lược, cô lập Huế – Đà Nẵng, tập trung lực lượng, tiêu diệt địch ở Trị Thiên – Huế và Quảng Ngãi – Quảng Nam, không cho địch co cụm về  Đà Nẵng.

Trên địa bàn Trị Thiên-Huế, trên cơ sở phương án đã chuẩn bị, nắm vững thời cơ, các đơn vị của Quân đoàn 2, Quân khu Trị Thiên, nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 1 ngụy, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 và các đơn vị bộ binh, binh chủng của địch, giải phóng thành phố Huế (10 giờ ngày 25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Trên địa bàn Quân khu 5, các đơn vị Quân khu đồng loạt tiến công địch ở Quảng Nam-Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 2 ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ, toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi, căn cứ Chu Lai, cắt đường 1 ở phía nam từ Tam Kỳ đi Đà Nẵng, tạo ra thời cơ thuận lợi cho giải phóng Đà Nẵng. Nắm thời cơ đó, ngày 27-3, các binh đoàn thọc sâu của ta bỏ qua các mục tiêu vòng ngoài, tiến thẳng vào thành phố Đà Nẵng.

Sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế – Đà Nẵng, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến, ta đã chủ động tạo thế và thời cơ cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”. Các sư đoàn chủ lực của ta phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến về giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung…

Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực của ta đã triển khai trên 5 hướng theo thế bao vây, chia cắt. Đúng 17 giờ ngày 26-4, cuộc tiến công Sài Gòn bắt đầu, với thế trận bao vây và sức mạnh áp đảo, tư tưởng chỉ đạo là: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Chiều 28-4, các sư đoàn địch phòng ngự ở vòng ngoài đã bị ta tiêu diệt và làm tan rã.  Từ sáng 29 đến 30-4, các cánh quân ta trên các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đưa cách mạng Việt Nambước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Đã 35 năm trôi qua trên đất nước ta, khí thế hào hùng của ngày đại thắng, cũng như bài học về nghệ thuật tạo thời cơ, nắm thời cơ vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta tiếp tục nghiên cứu, bổ sung phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một tầm cao mới, triệt để tận dụng thời cơ thuận lợi mà Đảng, Nhà nước, nhân dân tạo ra, để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ

Nghệ thuật sử dụng lực lượng phòng không trong Tổng tiến công mùa Xuân 1975

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thắng lợi của toàn dân tộc. Trong lĩnh vực quân sự đây là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng phòng không đi cùng bộ đội binh chủng hợp thành của Đảng ta.

Trong một thời gian ngắn chúng ta đã tổ chức một lực lượng lớn phòng không cho các binh đoàn tác chiến binh chủng hợp thành. Quân chủng PK-KQ đã chuyển giao hơn 50% số trung đoàn pháo phòng không (PPK); 243 xe phục vụ; 134 khẩu pháo; 68 cơ cấu phóng tên lửa tầm thấp A-72 và 794 đạn cho các quân đoàn chủ lực. Trong đội hình mỗi sư đoàn bộ binh được biên chế 1 tiểu đoàn PPK 37-2mm; 1 đến 3 phân đội tên lửa tầm thấp A-72. Các trung đoàn bộ binh có 1 đại đội súng máy phòng không (SMPK) 12,7mm. Các sư đoàn, trung đoàn phòng không được biên chế vào đội hình các quân khu, quân đoàn. Đây là một bước phát triển mới, quan trọng trong nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng phòng không tác chiến đi cùng đội hình binh chủng hợp thành, là nghệ thuật chuyển hóa thế trận phù hợp với tác chiến chiến dịch của binh chủng hợp thành.

Một đơn vị pháo phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Ảnh tư liệu

Đầu năm 1975, lực lượng không quân nguỵ trên chiến trường rất mạnh với tổng số 1852 máy bay các loại, trong biên chế của 6 sư đoàn không quân. Về số lượng, không quân địch được đánh giá là “đứng hàng thứ 3” trên thế giới. Đây là một thách thức lớn đối với toàn bộ các đơn vị và các hoạt động của ta, cũng như với lực lượng PKLQ. Để tập trung lực lượng và xây dựng thế tiến công kịp thời, bảo đảm cho chiến dịch, bộ đội phòng không đã cơ động hàng nghìn ki-lô-mét với đội hình xe, pháo nặng nề, cồng kềnh, dễ lộ bí mật, đã vượt qua nhiều địa hình phức tạp, khó khăn và đã đánh hàng trăm trận. Nhiều trận đánh địch của lực lượng phòng không có công sự, ngụy trang chu đáo, có trận địa chính thức, trận địa dự bị, nhưng đa số các trận đánh diễn ra trong điều kiện hành tiến, không có đầy đủ công sự, ngụy trang; các trận “tao ngộ chiến” với cả địch trên không và địch mặt đất, mặt nước. Lực lượng PKLQ đã tiêu diệt và làm tan rã 6 sư đoàn không quân; thu và phá hủy hơn 1000 máy bay; bắn rơi, bắn hỏng hàng trăm máy bay; bắn chìm, bắn cháy nhiều tàu chiến địch, phá hủy nhiều hỏa điểm, lô cốt, ổ đề kháng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo đảm cho tác chiến chiến dịch thắng lợi.

Đi cùng và chiến đấu trực tiếp bảo vệ đội hình quân đoàn (và tương đương quân đoàn) là các sư đoàn phòng không (hoặc các trung đoàn phòng không tăng cường). Trên các hướng tiến công chủ yếu, các mũi thọc sâu của các sư đoàn bộ binh, thường ta tập trung lực lượng từ 1 đến 2 trung đoàn phòng không. Đặc biệt nhất là chúng ta tập trung toàn bộ lực lượng  A-72 cho các đơn vị binh chủng hợp thành. Tên lửa tầm thấp A-72 đi cùng các đơn vị đặc công, các mũi đột kích, thọc sâu của xe tăng, bộ binh đã đánh địch có hiệu quả, quân địch rất khiếp sợ khi quan sát thấy cảnh tượng tên lửa ta đuổi hạ máy bay địch, chúng kinh hoàng kêu lên “hỏa tiễn tìm nhiệt Việt Cộng hạ phi cơ rồi”. Tinh thần binh lính địch hoảng loạn, sa sút, các ổ đề kháng bị tiêu diệt, tạo điều kiện cho bộ binh, xe tăng ta phát triển tiến công. Lực lượng  A-72 đã luôn theo sát bước chân thần tốc của bộ đội ta, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, cách đánh cũng rất táo bạo, linh hoạt, bất ngờ.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tên lửa tầm thấp A-72 đã bắn rơi tại chỗ 34 máy bay địch. Ngay trên hướng Tây Bắc Sài Gòn trong ngày 29-4, tên lửa A-72 đã bắn rơi 9 máy bay địch ở Phú Lâm, Tân Tạo, Ngã tư Bảy Hiền. Cũng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh chúng ta đã tổ chức thành công hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng phòng không với bộ binh, xe tăng và các tổ, đội bộ binh bắn máy bay bay thấp. Phát huy hỏa lực của các loại vũ khí trang bị PPK 57mm, 37mm, 23mm và súng máy phòng không 12,7mm được sử dụng đánh cả địch trên không và địch mặt đất, mặt nước. Riêng 2 trung đoàn phòng không 234 và 284 đã bắn cháy, bắn chìm 10 tàu chiến địch trên sông Đồng Nai. Và ngược lại bằng các loại vũ khí có trong tay như súng bộ binh, súng máy 12,7mm các đơn vị xe tăng, bộ binh đã chiến đấu quyết liệt với máy bay địch, kết hợp các phương tiện, trang bị từ súng bộ binh, súng máy phòng không, pháo phòng không, tên lủa tầm thấp, cả tên lửa và không quân chúng ta đã tạo ra một lưới lửa vừa tập trung, vừa rộng khắp, đánh địch liên tục trong suốt quá trình chiến dịch.

Từ tác chiến phòng không của lực lượng đi cùng binh chủng hợp thành trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm. Trước hết để bảo vệ trực tiếp cho các đơn vị binh chủng hợp thành, cần sử dụng phương tiện phòng không có sức cơ động nhanh, chiến đấu có hiệu quả với máy bay bay thấp và máy bay trực thăng vũ trang, chi viện hỏa lực của địch. Đó là các loại pháo phòng không tự hành, pháo phòng không có xe kéo, súng máy phòng không, tên lửa vác vai kết hợp với sự chuẩn bị sẵn kế hoạch bắn máy bay bằng súng bộ binh của các đơn vị binh chủng hợp thành. Tên lửa tầm thấp (A-72, A-87) có thể bố trí ngay trên các xe tăng, xe chiến đấu bộ binh và ở hướng dự kiến địch đánh phá. Trong quá trình phát triển của chiến dịch tiến công, căn cứ vào tình hình địch trên không, vị trí của các đơn vị được bảo vệ, các lực lượng và phương tiện phòng không phải thường xuyên sẵn sàng và di chuyển nhanh chóng bảo vệ bộ đội binh chủng hợp thành. Khi bộ đội binh chủng hợp thành vượt qua những đầu mối giao thông, cầu phà, bến vượt, ngầm… các phân đội phòng không phải ở tư thế SSCĐ cao nhất. Khi bị địch tập trung đánh phá ở độ cao thấp, các đơn vị phòng không nhanh chóng bắn trong tư thế hành tiến hay từ vị trí tạm dừng. Đồng thời sử dụng triệt để hỏa lực súng bộ binh, súng máy, đại liên… để tiêu diệt địch.

Mặt khác, trong tác chiến hiệp đồng với bộ đội binh chủng hợp thành, điều quan trọng nhất của người chỉ huy phòng không là phải nắm chắc nhiệm vụ, ý định, quyết tâm của người chỉ huy binh chủng hợp thành, nắm chắc nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ tiếp theo của chiến dịch và của các đợt, các trận chiến đấu của binh chủng hợp thành. Để đánh địch mặt đất, mặt nước, người chỉ huy các cấp nhất là từ tiểu đoàn trở xuống phải có kế hoạch cụ thể, chuẩn bị chu đáo, hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn để hỗ trợ nhau tiêu diệt địch và bảo toàn lực lượng ta.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh nhân dân, bằng sức mạnh của toàn dân tộc, của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Đây sẽ là cuộc chiến tranh lớn bằng vũ khí công nghệ cao hiện đại kết hợp với vũ khí công nghệ chưa cao, chưa hiện đại, thậm chí cả vũ khí thô sơ cũng được sử dụng để đánh địch. Do đó, lực lượng PKLQ, phòng không địa phương và dân quân tự vệ cần có số lượng đông, tổ chức tác chiến rộng khắp, tạo nên hỏa lực ở độ cao thấp là lực lượng xử lý và đánh địch tại chỗ nhanh nhất, đánh máy bay bay thấp, tên lửa hành trình, đổ bộ đường không, đường biển và tham gia các chiến dịch phản công, tiến công, các trận đánh trong các khu vực phòng thủ tỉnh, thành.

Lực lượng PKLQ, phòng không địa phương và dân quân tự vệ phải được tổ chức thành các cụm hỏa lực phòng không đủ mạnh, để bảo vệ trực tiếp các mục tiêu quan trọng trong khu vực phòng thủ, có nhiệm vụ tiêu hao, tiêu diệt địch, buộc địch phải phân tán, đối phó, đánh bại âm mưu dùng hỏa lực mạnh, đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Đồng thời tham gia trực tiếp bảo vệ các khu vực phòng thủ tỉnh (thành), chiến đấu tạo thế cho bộ đội PK-KQ tác chiến với chiến dịch phòng không lớn.

Thiếu tướng NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Cục trưởng Cục Phòng không Lục quân

Nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược

Tháng Tư 4, 2011 Bình luận đã bị tắt

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

Bộ đội ta tiến vào giải phóng Huế. Ảnh tư liệu

Thời cơ để quân và dân ta mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1975 là trên cơ sở thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở chiến trường miền Nam, bước đầu ta đã tiêu diệt lực lượng lớn quân địch và giải phóng một số vùng đất đai cùng với đòn đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch ra miền Bắc, buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri (27-1-1973). Sau thất bại nặng nề đó, địch đã suy yếu toàn diện cả về lực l­ượng, thế trận và tinh thần. So sánh lực lượng trên chiến trư­ờng có lợi cho ta và bất lợi cho địch, như­ng ngụy quân Sài Gòn vẫn còn có sự viện trợ về vũ khí và giúp đỡ của cố vấn quân sự dưới dạng cố vấn hành chính của Mỹ. Chính quyền ngụy Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri, tăng cường mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta.

Trư­ớc tình hình đó,  Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sớm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Đồng thời, nhất trí phê chuẩn ph­ương án của Bộ Tổng tham m­ưu là chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đây là hướng địch tuy mạnh nhưng có nhiều sơ hở và là nơi có tính chất hiểm yếu, sẽ gây bất ngờ lớn, cắt đôi chiến trường toàn miền Nam, làm đảo lộn thế chiến l­ược của địch. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta tiến hành 3 chiến dịch lớn. Đây là ba đòn tiến công chiến lược, thể hiện rõ nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến l­ược, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược.

Trước hết, là thế trận đứng chân của các binh đoàn chủ lực. Thế trận của ta là thế trận của chiến tranh nhân dân đã đ­ược xây dựng từ đầu cuộc chiến tranh, do chiến tranh nhân dân phát triển cao, nên các binh đoàn chủ lực của ta đã đứng chân ở phía Nam vĩ tuyến 17, lập thế tiến công ở phía tây chiến tuyến của địch, từ vĩ tuyến 17 đến Sài Gòn, đến đồng bằng sông Cửu Long. Các binh đoàn chủ lực của ta không tiến công địch từ phía Bắc vĩ tuyến 17, không đánh vào chiều dọc chiến tuyến của địch. Bởi vì, nếu ta mở cuộc tổng tiến công từ phía Bắc vĩ tuyến 17 đánh theo chiều dọc chiến tuyến của địch, có độ dày và chiều sâu lớn từ Quảng Trị đến Huế – Đà Nẵng – Nha Trang thì khả năng và sức đột phá không đủ mạnh để tiêu diệt địch, phá vỡ các tuyến phòng ngự của chúng. Do đó, các binh đoàn chủ lực của ta triển khai đứng chân ở phía tây chiến tuyến của địch, chỉ cách Huế – Đà Nẵng khoảng từ 30 đến 40km, thậm chí cũng đứng chân ở sát nách Sài Gòn, chỉ cách phía Tây Bắc Sài Gòn khoảng 60km, thực hành tiến công địch là hợp lý, dễ chọc thủng và chia cắt các tuyến phòng ngự của địch, giành thắng lợi nhanh chóng.

Thế trận triển khai từ phía tây đánh vào chiều ngang đội hình mỏng yếu của địch, không có chiều sâu, thì ta có thể nhanh chóng đánh chiếm chiến tuyến phòng ngự cơ bản của địch trên đ­ường số 1. Ở Huế, Đà Nẵng và Tam Kỳ, ta chỉ cần một lần đột phá chiến dịch là có thể đạt tới chiều sâu chiến l­ược. Thực tế ta đánh từ phía Tây các thành phố Huế, Đà Nẵng và thị xã Tam Kỳ thì tuyến phòng ngự của địch không có chiều sâu chiến l­ược mà chỉ có chiều sâu chiến dịch. Vì các binh đoàn chủ lực của ta đứng sẵn ở phía Bắc Sài Gòn, nên Sài Gòn gần như­ không còn chiều sâu chiến lược, tạo điều kiện cho ta nhanh chóng phá vỡ chiến tuyến, làm sụp đổ nhanh chóng thế trận chiến l­ược của địch.

Thế trận chiến l­ược mà ta tạo đ­ược đã chia cắt thế trận, phá đư­ợc thế liên hoàn chiến l­ược của địch, cô lập và chia cắt các tập đoàn lực l­ượng của địch ra từng cụm, khó có thể ứng cứu đ­ược nhau, ta tiến công vào đâu cũng dễ giành đ­ược thắng lợi, dễ phát triển tiến công, khuếch tr­ương thắng lợi trước để giành thắng lợi sau lớn hơn, thắng lợi sau tạo cho ta một thế trận vững chắc hơn để tiến công đè bẹp địch nhanh chóng. Đây là nét đặc sắc trong xây dựng thế trận chiến l­ược của ta. Trong chiến dịch Tây Nguyên, trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt đầu tiên có ý nghĩa quyết định vì, giáng một đòn sấm sét rất nhanh vào trận địa-tuyến phòng ngự của địch, mở ra và thúc đẩy sự phát triển lớn về thế chiến l­ược của ta, phá vỡ thế chiến  lược của địch. Trận thứ 2 ở Huế-Đà Nẵng, ta đã giáng một đòn rất mạnh, rất nhanh cũng có ý nghĩa then chốt quyết định, làm đảo lộn thế chiến lư­ợc của địch, tạo ra cục diện chiến tranh mới, gây ra đột biến chiến tranh, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho đòn thứ 3 là chiến dịch Hồ Chí Minh thành một trận then chốt quyết định, kết thúc chiến tranh.

Thế trận của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là một thế trận chiến tranh nhân dân, triển khai từ Quảng Trị qua Tây Nguyên đến Sài Gòn, là một thế trận đánh từ phía tây sang phía đông, đánh cắt giao thông, thế kết hợp các vùng, miền và sự nổi dậy của quần chúng. Xây dựng thế trận chiến lư­ợc nh­ư thế, buộc địch phải phân tán đối phó để ta có điều kiện tập trung lực lư­ợng đánh các đòn chiến l­ược quyết định ở Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng, rồi phát triển thắng lợi giải phóng Nam Trung Bộ. Trên đà thắng lợi, ta dùng tất cả lực l­ượng, cả quân đoàn tổng dự bị chiến l­ược và lực lượng ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng tập đoàn chiến lư­ợc phía Nam đã đứng chân sẵn ở ngoại vi Sài Gòn thực hiện đòn chiến l­ược then chốt quyết định giải phóng Sài Gòn một cách nhanh gọn.

Nghệ thuật xây dựng thế trận chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là một nghệ thuật độc đáo tài tình, đầy sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, là bư­ớc phát triển rực rỡ, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là biểu tượng sáng ngời của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến l­ược tài giỏi của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Đại tá Đào Văn Đệ